Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

c. Cứu tế

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 12370)
c. Cứu tế

KINH LỜI VÀNG 
Tác giả: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm
 

PHẦN III – NHƠN QUẢ

CHƯƠNG III

PHẬT ĐÀ

C. CỨU TẾ

Đức Phật năng lấy pháp tự trừ mê, cũng khiến người trừ mê; tự được thiền định, cũng khiến người được thiền định; tự qua bờ bên kia, cũng khiến người qua bờ bên kia; tự giải thoát, cũng khiến người được giải thoát; và tự được diệt độ, cũng khiến người được diệt độ

Kinh Trường A Hàm

Đức Phật hỏi ông thầy tập voi về phương pháp điều phục con voi có mấy thứ?

Thầy tập voi đáp: Thưa Ngài có 3 thứ là: 

Lấy móc sắt móc nơi miệng, rồi xỏ dây cột dắt 

Giảm ăn thường khiến nó đói ốm 

Lấy gậy đánh cho thật đau 

Nhờ cái móc móc miệng, mới chế được cái miệng dữ; nhờ chẳng cho ăn nhiều mới chế được cái thân hung bạo; nhờ đánh đập, mới chế phục được cái tâm hung hăng.

Đức Phật bảo với ông thầy voi rằng: Ta cũng có 3 pháp như vậy, để mà điều phục mọi chúng sanh, và cũng tự điều phục mình nữa, khiến cho được đạo vô vi

Lấy tâm chí thành mà chế ngự lỗi nơi miệng 

Lấy lòng trong lành, mà chế phục cái thân cang cường 

Lấy trí huệ diệt ngu si 

Ai mà đủ ba món nầy, thời độ được mọi người xa lìa ba ác đạo.

Kinh Pháp Cú Thí Dụ

Đức Phật bảo Phạm thiên Tư ích: Này Tư Ích! Nếu ai hay biết Phật dùng năm sức mà nói pháp, thì kẻ ấy mới có thể làm Phật sự.

Tư Ích thưa: Bạch Thế Tôn! Phật dùng năm món sức là thứ gì?

Phật dạy: 1. Lời nói, 2. Tùy nghi, 3. Phương tiện, 4. Pháp môn, 5. Đại bi

Lời nói: Là nói các pháp ba đời quá khứ, vị laihiện tại; nói pháp thế gianxuất thế gian; nói pháp có tội không tội; nói pháp hữu lậu vô lậu; nói pháp hữu vi vô vi; nói pháp sanh tử Niết bàn. Nhưng các pháp ấy không thể nói mà phải nói. Nếu khi biết như thế, tuy có tất cả lời nói, mà với các pháp ấy không tham đắm, vì không tham đắm nên tài biện luận không bị ngăn ngại, vì các lời nói ấy chẳng phá hoại được pháp tánh của các pháp, là vì lời nói chẳng phải pháp tánh vậy. 

Tùy nghi: Là cầu pháp nói tịnh pháptịnh pháp nói cấu pháp; vì kẻ chấp trước nơi lời nói, nên thật ngữ nói hư vọng; vì kẻ ngạo mạn quá nặng, nên hư vọng nói thật ngữ; vì muốn diệt các chấp điên đảo phiền não nên nói có Niết bàn; vì muốn diệt cái chấp các pháp bất sanh, bất diệtvô thường, nên nói không có Niết bàn; tùy theo pháp thế gian, nói có chúng sanh; tùy theo pháp xuất thế gian, nói không có chúng sanh

Phương tiện: Phật vì chúng sanh nói bố thí được đại phước, trì giới được lên trời, nhẫn nhục được quả báo thân tốt đẹp tinh tấn được các công đức, thiền định được pháp vui, trí huệ được bỏ các phiền não, đa văn được thêm lớn trí huệ, tu thập thiện hưởng phước người trời; từ bi hỷ xả, được làm Phạm thiên; thiền định được như thật trí huệ; trí huệ được đạo quả; bậc "học" được bậc vô học, bậc Phật mới được vô thượng trí huệ; Niết bàn diệt tất cả phiền não. Nhưng Như Lai vô ngã tướng, vô nhơn tướng, vô chúng sanhvô thọ giả các tướng. Cũng không bố thí cùng tham lam, không trì giới cùng phá giới, không nhẫn nhục cùng giận dữ; không tinh tấn cùng biếng lười, không thiền định cùng tán loạn, không trí huệ và quả trí huệ. Không có tất cả các tướng mà thường nói pháp, là đều vì tất cả chúng sanh mới phương tiện mà nói pháp vậy. 

Pháp môn: Là mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu căn, với sắc thanh hương vị xúc pháp sáu cảnh, đều là cửa giải thoát. Tại sao thế? Vì là sáu căn sáu cảnh kỳ thiệt là: không, vô ngã, vô ngã sở, không, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô sở lai, vô sở Khứ, vô thối, vô khởi, là vì pháp tánh thanh tịnh mà Ta phương tiện dùng văn tự để chỉ vẽ mà thôi. 

Đại bi: Là Phật dùng 32 đại bi cứu độ chúng sanh

Tất cả các pháp vô ngãchúng sanh chẳng tin chẳng biết, Ta nơi ấy mà sanh khởi lòng đại bi 

Tất cả chúng sanh, thật không mà tin có, khởi đại bi 

Tất cả pháp, không thọ mạng mà tin có, khởi đại bi 

Tất cả pháp, không tướng người mà tin có, khởi đại bi 

Tất cả pháp, không bị có mà tin có, khởi đại bi 

Tất cả pháp, không trụ mà tin có, khởi đại bi 

Tất cả pháp, không chỗ về mà tin có, khởi đại bi 

Tất cả pháp, không phải vật bị có của ta mà tin có, khởi đại bi 

Tất cả pháp, không sở thuộc về ai mà tin có, khởi đại bi 

Tất cả pháp, không có tướng khá lấy mà tin có, khởi đại bi 

Tất cả pháp, không sanh mà tin có, khởi đại bi 

Tất cả pháp, chẳng thối sanh mà tin có, khởi đại bi 

Tất cả pháp, không dơ mà chấp dơ, nên khởi đại bi 

Tất cả pháp, lìa nhiễm mà cho có nhiễm, khởi đại bi 

Tất cả pháp, lìa sân mà cho có sân, khởi đại bi 

Tất cả pháp, lìa si mà cho có si, khởi đại bi 

Tất cả pháp không chỗ đến, mà tin có đến, nên khởi đại bi 

Tất cả pháp không chỗ đi, mà tin có đi, khởi đại bi 

Tất cả pháp không khởi, mà tin có khởi, khởi đại bi 

Tất cả pháp không hí luận mà tin có, khởi đại bi 

Tất cả pháp vô tướng mà tin có, khởi đại bi 

Tất cả pháp vô tác mà tin có, khởi đại bi 

Thế gian thường khởi giận dữ, tranh dành, khởi đại bi 

Thế gian khởi niệm tà kiến, làm tà hạnh, khởi đại bi 

Thế gian tham ăn không nhàm, cướp giựt lẫn nhau, khởi đại bi 

Chúng sanh đối với sản nghiệp vợ con v.v… mến chấp chắc cứng, nên khởi lòng đại bi 

Chúng sanh tham đắm với cái thân, nên khởi đại bi 

Chúng sanh ưa dối gạt, làm tà mạng, nên khởi đại bi 

Chúng sanh vui ở nhà bất tịnh, nên khởi đại bi 

Chúng sanh lười biếng tu hạnh chánh giải thoát, khởi đại bi 

Chúng sanh bỏ trí huệ cao tột, mà cầu mong trí huệ Thanh văn, Duyên giác, nên khởi đại bi 

Tất cả pháp không diệt, mà tin có diệt, nên khởi đại bi 

Nếu có Bồ tát nào sanh khởi lòng đại bi như thế là đấng Đại Phước Điền vậy. 

Kinh Phạm Thiên Tư Ích Sở Vấn

Phật dùng một âm diễn nói pháp, tùy các loài chúng sanh đều được hiểu.

Kinh Duy Ma

Tiếng Như Lai mầu nhiệm, vang dội nghe mười phương.

Luận Trí Độ

Có lời hỏi: Pháp mà đức Phật đã chứng chỉ có một, nhưng cớ chi lại hiện cõi nước vô lượng, giáo hóa chúng sanh vô lượng, diễn tiếng nói vô lượnghiện thân vô lượng vậy?

Đáp: Ví như tánh đất chỉ có một, chúng sanh ở rải rác, đất không nghĩ là đồng hay là khác. Lại như tánh lửa cũng chỉ có một, mà hay đốt mọi vật, lửa không phân biệt chi hết. Và như nước ở biển cả chỉ có một, mà hiện ngàn vạn hình sóng mòi, nước không phân biệt. Lại cũng như tánh gió chỉ có một mà thổi tất cả vật, gió cũng không có nghĩ thổi riêng từng vật nào. Và như vầng thái dương không bị mây mù, thì soi khắp mười phương mà tánh chói sáng chẳng sai khác.

Pháp của các đức Phật cũng in như vậy.

Kinh Hoa Nghiêm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33399)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6605)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11369)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30454)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30474)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8029)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12261)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12303)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11658)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12911)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34881)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9887)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52325)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10806)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10577)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10769)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10516)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13128)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16339)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21909)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9677)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7175)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10439)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12836)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12843)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16287)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16592)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13916)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16640)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12177)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13901)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14367)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9261)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11795)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11319)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16396)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14411)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16244)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12733)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12140)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11847)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15722)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11571)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14064)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12054)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12711)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15042)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 12001)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13171)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14599)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20783)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13283)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11013)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20765)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14421)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20460)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17710)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14075)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31915)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12070)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant