Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Giáo nghĩa căn bản của Phật giáo

18 Tháng Hai 201100:00(Xem: 13421)
3. Giáo nghĩa căn bản của Phật giáo

PHẬT HỌC CĂN BẢN
Thích Giải Hiền

3. Giáo nghĩa căn bản của Phật giáo

3.1. Phật giáo lấy Tam Bảo làm trung tâm

Tam Bảo chính là Phật, Pháp, Tăng. Phật là Đức Thích Ca Mâu Ni tu hành trải qua vô lượng kiếp sau thành Phật. Ngài đem quá trình tu tập, phương pháp tu tập giảng dạy đó chính là pháp. Nhưng Phật chỉ có một không thể độ hết quảng đại chúng sinh, hơn nữa sau khi Phật nhập diệt người đời sau muốn học Phật pháp phải nương dựa vào chư Tăng. Tăng có Thánh Tăngphàm phu Tăng. Những vị xuất gia tu chứng đắc từ sơ quả trong Tứ Thánh trở lên và những bật chứng đắc từ sơ địa Bồ-tát trở lên gọi là Thánh Tăng. Những vị xuất gia bình thườngphàm phu Tăng. Trụ trì Phật pháp chủ yếu là phàm phu Tăng. Thánh Tăng xuất hiện trong phàm phu Tăng, dùng thân tướng phàm phu Tăng để tiếp cận và hoá đạo phàm nhân. Cho nên những bậc được tôn xưng là Bồ-tát, Phật hay Thánh Tăng trong lịch sử nhân vật của Phật giáo điều do người đời sau, hay chúng đệ tử tôn xưng họ chứ không phải những vị ấy tự tôn xưng mình là Phật, là Bồ-tát, hay là Thánh Tăng. Như ở Ấn Độ các ngài Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân điều được người đời sau gọi là Bồ-tát, hay như ở Trung Quốc ngài Trí Giả Đại Sư tông Thiên Thai, người đời sau gọi Ngài là Đông Độ Tiểu Thích Ca, nhưng Ngài vẫn nói Ngài là người phàm phu lục căn chưa thanh tịnh. Hay Thiền Sư Vĩnh Minh Diên Thọ được người sau gọi là Di Đà tái thế, vì Ngài sinh vào ngày 17 tháng 11, nhưng Ngài chưa từng nói mình là Phật Di Đà. Trong Phật giáo những vị tự xưng mình là Thánh Nhân, là Phật thì chắc chắn rằng người này đang có vấn đề.

3.2. Phật giáo lấy Tứ Thánh Đế làm căn bản

Tứ Thánh Đếsự thật của khổ, nguyên nhân của khổ, phương pháp diệt khổ và kết quả đạt được sau khi đã diệt trừ được khổ. Cuộc sống của con người từ khi sinh ra đến lúc chết, có khổ có vui, nhưng vui chỉ là sự trả giá của khổ đau cũng chính là sự bắt đầu của khổ. Cái gọi là “khổ tận cam lai”, “lương tiêu khổ đoạn” là nói rõ bản chất của vui là từ khổ đau cả, là lấy khổ đau để đánh đổi niềm vui, vui ở đời không gì là vĩnh cữu cả. Đạo Phật gọi đó là hoại khổ, còn sinh lão bệnh tửkhổ khổ. Sự thật của đời người là kết quả của khổ đau. Khổ có nhiều loại. Khổ khổ có tám là sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, cầu bất đắc, oán tắn hội khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ. Ngũ ấm xí thạnh là sự hổ tương giao bức giữa thân với tâm, nên có sự liên tục của sinh tử.

Tập là nguyên nhân của khổ vì không hiểu vạn pháp là do duyên giả hợp nên ghét khổ ham vui, cầu được vui rồi thì lại cầu an toàn nhưng vĩnh viễn không cảm thấy an toàn đó chính là cầu mãi không chán. Mê muội cho rằng tiền là tất cả nên “vùi đầu vùi cổ” lo kiến tiền. Có tiền rồi thì không dám sài, làm nô lệ cho đồng tiền, còn không tiền thì lo đi kiếm… Tất cả điều là nguyên nhân của khổ đau. Đời này vì ghét khổ cầu vui mà tạo bao ác nghiệp như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ. Các nghiệp do duyên kết hợp mà sinh bao quả báo. Thiện có thiện báo, ác có ác báo tất cả đều là nguyên nhân của khổ đau.

Phương pháp căn bản của diệt khổBát Chính Đạo. Muốn diệt khổ cần tu chính đạo, muốn tu được chính đạo thì phải có chính tri kiến, tin tưởng sâu sắc rằng tất cả hiện tượng ở đời đều sinh ra từ lý nhân quả, tư duy rằng tất cả vạn pháp trên thế gian này đều do nhân duyên tụ hội mà thành. Nếu hiểu và tin tưởng vào nhân quả thì không tham và không trốn tránh trách nhiệm vì biết rằng muốn lìa khổ được vui điều quan trọng là phải dựa vào sự nổ lực của tự thân. Nếu hiểu rõ vạn pháp ở đời đều do duyên sinh nên vô thường thì thắng không kiêu, bại không nản, thành công là do nhiều người giúp sức và do các duyên tụ hội. Hơn nữa việc đã thành tựu rồi cũng sẽ đổi thay theo thời tiết nhân duyên. Tóm lại tin nhân quả, rõ nhân duyên chính là chính tri, chính kiếnchính tư duy vậy. Sau khi đã có chính tri, chính kiến rồi cần phải tu hành chính xác nữa. Một là có nghề nghiệp chính đáng không làm những nghề liên hệ đến sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và rượu cùng các chất gây nghiện. Cần có lối sống chính đáng không mê tham trong ăn chơi, cờ bạc, hút sách. Lại cần có ngôn ngữ hành vi chính đáng không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời ác và không nói thêm thắt. Ngoài ra còn cần tinh tấn trì giới, tin tấn tu tậpthiền định cùng nổ lực cần cầu trí tuệ. Sống theo tinh thần Bồ-tát hạnh làm việc lợi mình lợi người. Giữ gìn giới luật, tu tập thiền định giữ cho thân tâm luôn trong trạng thái quân bình thì tín tâm mới kiên cố, nổ lực tụng kinh bái sám, nghe pháp rồi như pháp tu trì thì sẽ khai phát trí tuệ, có được trí tuệ thì sẽ diệt được khổ đau.

Kết quả của sự diệt khổgiải thoát được hết thảy phiền não buộc ràng, lìa được sinh tử luân hồi. Ở trong đời thường làm việc lợi đời lợi đạo mà không bị phiền não ràng buộcchi phối chính là ở trong Đại Niết Bàn vậy.

Phật giáo lấy giáo pháp làm phương tiện cứu tế, không phải lấy người hay thần làm pháp cứu tế. Đối với hết thảy các pháp ở thế gian Phật pháp không hề biên chấp nên là pháp vô ngã, từ bitrí tuệ. Do vậy hết thảy các thiện pháp ở đời đều là Phật pháp. Bất luận là kỷ thuật, tri thức, triết học hay tôn giáo nếu có lợi ích cho cuộc sống, nhân tâmxã hội Phật giáo đều không bài xích nên Phật giáo hàm dung hết thảy mọi thiện phápthế gian.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11654)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11975)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11130)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11367)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12084)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12580)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10786)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18013)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11741)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9964)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10192)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12367)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15367)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11263)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14345)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12125)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15389)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12022)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12429)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11205)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12099)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10639)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12571)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13189)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14860)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12714)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16595)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19687)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13124)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12679)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12278)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11872)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13551)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11970)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11857)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11651)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12783)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14537)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12633)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15685)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13643)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12920)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9889)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18033)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11193)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9096)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12201)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13074)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10329)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12215)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15332)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16623)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12236)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11499)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14287)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19719)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14172)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24628)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10713)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant