Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Lịch sử phát triển của Phật giáo

18 Tháng Hai 201100:00(Xem: 12737)
2. Lịch sử phát triển của Phật giáo

PHẬT HỌC CĂN BẢN
Thích Giải Hiền

2. Lịch sử phát triển của Phật giáo

2.1 Phật giáo phát sinh từ Ấn Độ

Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ. Phật giáo Ấn Độ phát triển qua ba thời kỳ.

2.1.1 Thời Phật còn tại thế và sau khi diệt độ khoảng hai trăm (200) năm

Thời kỳ này gọi là thời kỳ nguyên thuỷ của Phật giáo, đây là thời kỳ thuần nhất của Phật giáo. Đức Phật phản đối việc cúng bái mê tín, phản đối việc sùng bái ngẫu tượng, Ngài không chủ trương việc thần thánh hoá cá nhân mà chỉ dạy mọi người thực hiện theo giáo pháp và tuân giữ giới luật. Ngài thường dạy các đệ tử, ta không phải là người lãnh đạo, ta chỉ là một thành viên trong tăng đoàn mà thôi. Đức Phật dùng những quan niệmphương pháp bình đẳng, thiết thực để giúp đỡ chúng sinh thoát khỏi những khổ não của thân tâm. Đối tượng của kinh luật là con người, mục đích của kinh Phật là cứu độ con người.

2.1.2 Thời kỳ sau Phật diệt độ khoảng bốn trăm (400) năm 

Tư tưởng Phật giáo dần dần có sự biến đổi và mang tính khu vực. Ở Ấn Độ do khí hậu, ngôn ngữ và dân tộc khác nhau nên quá trình truyền bá của Phật giáo trên phương diện hình thái và tư tưởng cũng có nhiều thay đổi. Mỗi một vị thầy khi truyền bá ở mỗi khu vực khác nhau, vì để thích ứng với nhu cầu của đại chúng cùng xã hội đương thời nên sinh ra những khác biệt trên phương diện hình thức cùng tư tưởng nên thời kỳ này còn gọi là thời kỳ bộ phái Phật giáo. Thời kỳ bộ phái Phật giáo chú trọng nhiều đến việc chỉnh lý, lý luậnbiện minh của quan niệmxu hướng coi trọng việc giải thoát của cá nhân. Do vậy mà sau này xu hướng Đại thừa gọi bộ phái Phật giáo này là Tiểu thừa. Nhưng bộ phái Phật giáo có hai bộ phận lớn là:

Thượng toạ bộ nhiều tư tưởng bảo thủ
Đại chúng bộ nhiều tư tưởng cởi mở hơn

Theo quan điểm của Tiểu thừa là cổ xe nhỏ chú trọng nhiều đến tư tưởng tự độ hơn độ tha. Ngày nay không nên dùng danh từ này mà nên gọi là Nam truyền hay Nam Tông.

Đại thừa Phật giáo (theo cách gọi trước đây) hình thành sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn từ năm trăm (500) đến một ngàn (1000) năm. Đề xướng tinh thần Bồ-tát-đạo vì lợi ích của quảng đại chúng sinh, vì thành tựu Phật đạo phát Bồ-đề-tâm. Đại bồ đề tâmtâm nguyện “Nguyện độ chúng sinh đồng ly khổ nạn, không vì sự an lạc của tự thân” đó chính là tinh thần “vì mọi người”. Đại thừa Phật giáo (nay nên gọi là Bắc tông, hay Bắc truyền) ở Ấn Độ chia thành ba phái là:

Y cứ tư tưởng Bát Nhã gọi là Trung Quán học phái
Y cứ tư tưởng Duy thức gọi là Du Già học phái
Y cứ tư tưởng Duy tâm gọi là Như Lai Tạng học phái

Ba học phái này quy thành hai phái chính là:

Tư tưởng tính không gọi là phái Trung Quán
Tư tưởng hữu, có Duy thứcDuy tâm, Duy thứcDu Già phái, còn Duy tâmNhư Lai Tạng phái

2.2. Phật giáo từ Ấn Độ truyền lên phương bắc

Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang phương bắc chia làm hai hệ thống đó là: vùng văn hoá dân tộc Hán ở Trung Nguyên Trung Quốc và vùng văn hoá dân tộc Tây Tạng, Mông Cổ vùng biên cương Trung Quốc. Phật giáo truyền đến Trung Quốc vào khoảng năm sáu trăm mười bảy (617) tây lịch. Do hai vị Tăng Ấn Độ là Ca Diếp Ma Đà và Trúc Pháp Lan dùng ngựa trắng chở kinh đến Lạc Dương. Bộ kinh đầu tiên được dịch sang hán văn là bộ kinh “Tứ Thập Nhị Chương”. Kinh điển chữ hán trải qua quá trình phiên dịch trước tác hơn một ngàn năm đã hình thành nên Phật giáo của người Hán Trung Quốc. Rồi từ đó Phật giáo Trung Quốc truyền sang các nước lân cận, đầu tiên hết là Hàn Quốc, rồi từ Hàn Quốc truyền sang Nhật Bản, người Nhật sau khi được Phật giáo truyền từ Hàn Quốc sang đã phái nhiều Du học sinh sang Trung Quốc học đạo cầu pháp. Từ thời Tuỳ Đường cho đến Tống Minh. Nhật Bản là nơi duy nhất đã có đủ tất cả tông phái của Trung Quốc truyền sang. Trung Quốc trong thời kỳ pháp nạn, “Tam Vũ Nhất Tông” nhiều kinh điển sau đó đã không còn nhưng đã được Phật giáo Nhât Bản giữ gìn nguyên vẹn, đây là công đức không nhỏ. Ngoài Hàn Quốc, Nhật BảnPhật giáo Đại thừa Trung Quốc còn được truyền sang Việt Nam.

Phật giáo Trung Quốc có mười tông phái gồm cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Tiểu thừa có hai tông phái: Câu xáThành Thật tông. Sau này Câu xá tông xác nhập vào Duy thức tông. Thành Thật tông nhập vào Tam Luận tông, nên chỉ còn lại là tám tông phái Đại ThừaThiên Thai tông, Tam Luận tông, Hoa Nghiêm tông, Luật tông, Tịnh Độ tông, Mật tông, Thiền tôngPháp Tướng tông. Trong tám tông phái này cho đến nay chỉ có Thiền và Tịnh Độ tông là phát triển mạnh nhất. Trên thực tế đa phần các chùa ở Trung Quốc điều thuộc Thiền tông, nhưng chỉ tu Thiền thôi mà không niệm Phật thời rất ít. Do đó đã hình thành nên pháp môn Thiền Tịnh song tu.

Thiên Thai tông, Duy thức tông, Hoa Nghiêm tông chuyên về nghiên cứu học vấn chùa viện và đồ chúng rất ít. Tất cả những người xuất gia điều phải thọ giới, nhưng hiện nay không có quy định là chỉ có chùa thuộc Luật tông mới được phép truyền giới. Những vị xuất gia chỉ chuyên trì luậthọc luật còn rất ít. Trước năm 1949 ở Trung Quốc Đại Lục chùa thuộc Luật tông không còn nhiều chỉ có vài chùa mà thôi.

Mật tông truyền vào Trung Quốc vào đời nhà Đường, sau đó từ Trung Quốc truyền sang Nhật và từ đó về sau Mật tông không còn có ở Trung Quốc nữa. Người Trung Quốc vì sao không thích Mật tông? Có thể là do ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia cho những quan niệm chú lực, thần lực gia trì trong Mật tông là những hiện tượng dị thường nên trong khu vực văn hoá Hán ngữ Trung Quốc Mật tông không thể thịnh hành được.

Đến thế kỷ thứ 7 một đợt truyền bá nữa của Phật giáo Đạt thừa từ Ấn Độ truyền sang phương bắc, đầu tiên hết truyền đến Tây Tạng, sau đó truyền sang Mông Cổ. Đây là Phật giáo thuộc khu vực văn hoá Tạng Mông. Vào thời kỳ đó Mật tông đang rất thịnh hànhẤn Độ, sau khi truyền vào Tây Tạng từ từ đã phù hợp với nhu cầu của người dân Tây Tạng đồng thời kết hợp với Tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc vùng núi Tây Tạng hình thành nên Mật tông Tây Tạng ngày nay. Mật tông vốn là một nhánh của hệ thống Phật giáo Duy tâmẤn Độ.

2.3 Phật giáo từ Ấn Độ truyền xuống phương nam

Năm hai trăm bốn mươi (240) trước Tây lịch Phật giáo từ Ấn Độ truyền xuống phía nam như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, một số nước Đông Nam Á khác như Lào, Cam Pu Chia, Việt Nam. Phật giáo truyền xuống phương nam thuộc Thượng Toạ Bộ. Vì các nước này vốn không có Tôn giáo cao cấp khác, cũng không có tư tưởng văn hoá triết học lớn, nên khi Phật giáo truyền đến thời không có sự thay đổi lớn, nên mang đậm nét màu sắc Nguyên thuỷ của Phật giáo hơn.

2.4 Phật giáo truyền sang Âu Mỹ và khắp thế giới

Phật giáo đầu tiên được truyền sang Âu Mỹhệ thống Phật giáo Nam truyền do các giáo sĩhọc giả phương tây đã theo chân các thế lực chính trị đến các vùng đất thuộc địa ở Tây Nam Á và Đông Nam Á, họ tiếp xúc với Phật giáo ở các nơi đó và đem kinh điển Phật giáo dịch sang tiếng các nước Âu Mỹ như công trình phiên dịch “Thế giới Phật giáo Thánh Điển” dịch từ kinh điển tiếng Pali của Nam Truyền.

Thứ đến là Thiền của Phật Giáo Nhật Bản được truyền sang Âu Mỹ. Phật giáo của Nhật Bản cũng có nhiều tông phái, trong đó Tịnh Độ Chân tôngNhựt Liên Tông đã trở thành Tôn giáo riêng của Nhật Bản, duy chỉ có Thiền tông của Nhật Bản vẫn còn giữ được phong cách của Phật giáo truyền từ Trung Quốc sang. Do vậy người Âu Mỹ đã tiếp nhận Thiền của Nhật Bản. Người có công lao truyền bá Thiền của Phật giáo Nhật BảnThiền Sư Suyuki lúc đầu Thiền Sư Suyuki đã giảng về Thiền ở trường Đại học Co Lum Bia, sau đó tư tưởng Thiền của Ngài đã được truyền bá ở Mỹ và Âu Châu. Dần Dần đã có nhiều vị Thiền Sư Nhật Bản khác đến thành phố San-phan-xi-cô rồi đến miền Đông và hiện nay đã truyền đến miền Trung và Tây nước Mỹ cũng như một số nước ở Âu Châu.

Thứ ba là Phật giáo Mật tông Tây Tạng theo làn sóng di dân tị nạn của dân Tây Tạng sang Ấn Độ. Lúc đó Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa theo mấy chục nghìn vị Lạt Ma trẻ tuổi đã được giáo dụcđào tạo rất quy củ từ nội điển, pháp tu đến ngoại ngữ, sau đó các vị này đã cùng dân Tây Tạng đến khắp các nước trên thế giới. Những vị Lạt Ma này có năng lực thích ứng và khả năng truyền đạt rất lớn vì họ được đào tạo rất kỷ càng và có hệ thống từ thấp đến cao, cả nội điển, ngoại điển lẫn pháp tu. Rồi cùng với ảnh hưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma họ đã xây dựng nên những Trung tâm Phật giáo Tây Tạng rất lớn trên khắp các nước Âu Mỹ và đem Phật giáo truyền bá mạnh mẽ khắp các nước Phương Tây.

Một hệ thống truyền bá Phật giáo ở Phương Tây nữa cũng phải đề cập đến là Phật giáo Việt Nam, sau năm 1975 cho đến nay cũng đã có mặt ở hầu khắp các nước Âu Mỹ nơi có cộng đồng người Việt Nam sinh sống.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11700)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12022)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11167)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11400)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12127)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12611)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10834)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18058)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11785)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10008)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10232)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12417)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15420)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11292)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14410)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12171)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15460)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12062)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12480)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11263)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12140)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10682)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12599)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13243)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14926)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12757)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16644)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19750)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13188)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12737)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12340)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11925)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10985)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13596)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12015)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11926)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11699)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12818)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14604)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12682)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15751)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13693)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12977)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9939)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18080)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11242)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9126)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12258)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13106)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10357)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12247)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15399)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16680)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12303)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11574)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14350)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19793)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14228)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24709)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10743)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant