Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

5. Chùa tháp và sự thờ cúng

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11028)
5. Chùa tháp và sự thờ cúng

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

CHÙA THÁP VÀ SỰ THỜ CÚNG

Chùa tháp là những nơi quan trọng, cần thiết trong đời sống chung của xã hội từ xưa đến nay. Chùa là nơi mà tăng chúng truyền giảng đạo lý và hóa độ cho hàng cư sĩ, khiến họ kính tín, quy y Tam bảo và sống cuộc sống chân chính của người Phật tử. Ngôi chùa cũng là nơi thực hiện các nghi lễ cúng kính quan trọng nhất của Phật giáo. Tháp là những nơi được dựng nên để cung kính thờ phụng các đức Phật, thường là được truyền nối từ đời này sang đời khác. Nhiều tháp Phật danh tiếng qua nhiều ngàn năm nay vẫn còn đứng vững.

Vào thời Phật tại thế, hình thức đầu tiên của chùa chiền chính là những khu tinh xá. Sau khi Phật thành đạo và đi khắp nơi giáo hóa, số đệ tử xuất gia theo ngài ngày càng đông hơn. Với những bậc trưởng lão đã đắc đạo, thực hiện đời sống khất thực không nhà, đêm ngủ nơi gốc cây, thì việc cất chùa là không cần thiết. Các vị chẳng tham luyến ở những nơi êm ấm, mà chỉ chuộng cuộc sống khất thực không nhà để có thể hóa độ khắp nơi. Nhưng với những người mới xuất gia, và số này rất đông, cần phải có một nơi để họ ở yên trong thời gian còn phải học hỏi. Chính tại nơi ấy, Phật mới có thể truyền dạy cho họ những kiến thức đầu tiên về cuộc sống tu hành, giúp họ có được những vốn liếng tinh thần tối thiểu để sau đó mới có thể tự mình vững bước trên đường đạo mà không sợ lầm đường lạc lối. Xét rõ nhu cầu ấy, vua Tần-bà-sa-la, một vị vua hết sức ủng hộ Phật pháp, đã cúng dường cho Phật và Giáo hội khu tinh xá Trúc Lâm ở gần kinh thành Vương-xá, trong ấy có đủ chỗ ở cho tất cả Giáo hội thời bấy giờ.

Về sau còn có một thương gia là ông trưởng giả Tu-đạt đã mua khu vườn của thái tử Kỳ-đà và xây dựng thành một khu tinh xá gọi tên là tinh xá Kỳ Viên, dâng cúng cho Phật và giáo hội để làm chỗ tu tậpgiáo hóa cho bá tánh trong thành Xá-vệ. Đó là những cảnh chùa xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Phật giáo.

Về sau, việc xây dựng chùa chiền vẫn thường noi theo như trước. Người ta chọn những nơi thanh vắng, yên tĩnh, xa những tiếng ồn ào của thị tứ, và xây dựng đủ các phòng ốc cần thiết cho sinh hoạt của một tập thể tu tập. Trong đó phải có chánh điện thờ Phật, liêu phòng của vị trú trì, nhà bếp, nhà ăn, lại phải có chỗ để chư tăng phương xa ghé lại có thể nghỉ ngơi, kể cả chỗ nghỉ dành cho bá tánh nữa. Ngoài ra còn phải có giảng đường làm nơi thuyết pháp hoặc tụng đọc giới bổn, phòng cất giữ kinh sách... Cuối cùng là phải đảm bảo nơi vệ sinh công cộng, như nhà tắm, nhà tiêu...

Chùa ở miền Tây Tạng thường xây dựng rất to lớn, đồ sộ, bởi ở xứ ấy người ta mộ đạo Phật. Chẳng những đạo Phậtquốc giáo, mà ngày xưa những người cầm quyền chính trị trong nước cũng chính là một vị tăng. Chùa chiền ở Tây Tạng cũng là những trường học tổng hợp, dạy cho người ta đủ các môn khoa học như đạo đức, triết lý, thần học, chiêm tinh, y học, mỹ thuật...

Tuy là chọn những nơi yên tĩnh, nhưng chùa chiền thường cũng không xây dựng ở chỗ quá hẻo lánh. Khác với những am, cốc... là nơi chỉ chuyên dành cho các vị tăng sĩ muốn tập trung hết tinh thần vào việc tu tập; chùa chẳng những là nơi tu tập mà còn là nơi để truyền bá giáo lý nhà Phật, là chỗ dựa tinh thần cho bá tánh nhân dân. Vì vậy, chùa phải chọn nơi thuận tiện đường giao thông, hoặc ít ra cũng không quá khó đến. Lý tưởng nhất là chùa nằm cách khu dân cư không xa lắm để người dân có thể tìm đến bất cứ lúc nào, nhưng cũng không quá ồn ào ảnh hưởng đến việc tu tập của chư tăng. Ở những vùng có núi non, chùa thường được chọn cất trên núi nhưng có đường lên, để vừa yên tĩnh vừa có thể là nơi bá tánh tụ họp dễ dàng.

Nhiều nơi sẵn có địa thế thiên nhiên, người ta có thể sửa sang các hang động tự nhiên trong núi non lại đôi chút, cũng tạo thành được những ngôi chùa đẹp và thuận tiện cho chư tăng tu tập.

Dù là chùa ở nơi đất bằng, triền núi hay hang động, kiểu cách có phần nào khác nhau, nhưng cách bài biện, thờ phụng cũng đều có những nét chung như nhau. Vật dụng, giường ghế, hầu hết đều vừa phải với nhu cầu sử dụng, chủ yếu là cần có để dùng chứ không chạy theo sự phô trương, chưng diện. Nhất là các ngôi chùa ở chốn núi non, hang động thì lại càng đơn sơ hơn hết.

Trong Phật giáo, sự thờ cúng cung kính nhất là xá-lỵ Phật. Đó là những tro cốt còn lại sau khi người ta làm lễ thiêu xác Phật. Những xá-lỵ ấy được thờ kính như Phật còn tại thế. Người ta mong muốn được thờ cúng những xá-lỵ của Phật, vì họ tôn kính Phật và giáo pháp của ngài. Khi ngài nhập diệt, người ta nghĩ rằng chỉ còn có cách ấy để được gần gũi Phật. Vì thế, sau khi Phật nhập diệt, các vị vua chúa đương thời đã mang cả quân binh đến để giành lấy xá-lỵ Phật. Cũng may là vẫn còn các vị đệ tử lớn, khéo đem giáo pháp của Phật ra mà khuyên dạy họ, khiến cho hết thảy đều hòa hoãn mà phân chia nhau, không đến nỗi xảy ra cuộc đao binh.

Ngoài xá-lỵ Phật, người ta cũng giữ lại những vật dụng mà Phật đã dùng để thờ kính. Nhưng chỉ có xá-lỵ Phật là tồn tại lâu dài, còn những vật dụng khác đều hư nát theo thời gian, đến nay không còn nữa. Tuy nhiên, có những nơi Phật đã đi qua trên đường giáo hóa, vẫn còn để lại nhiều dấu tích. Những nơi ấy đều được xây dựng thành chùa lớn để thờ cúng và làm chỗ cho thập phương tín đồ về chiêm ngưỡng.

Có những nơi mà tín đồ Phật giáo khắp nơi trên thế giới đều mong muốn được có một lần đến lễ bái, chiêm ngưỡng. Đó là bốn thánh địaliên quan chặt chẽ đến cuộc đời đức Phật. Một là vườn Lam-tỳ-ni, nơi Phật đản sanh. Hai là cây bồ-đề nơi Phật thành đạo ở xứ Già-da. Ba là vườn Lộc, thường gọi là Lộc uyển ở xứ Ba-la-nại, nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên, gọi là Chuyển pháp luân. Bốn là chỗ hai cây sa-la xứ Câu-thi-na, nơi Phật nhập diệt. Bốn thánh tích ấy từ bao đời qua vẫn được giữ gìn cẩn thận và là nơi chiêm ngưỡng cho hàng triệu tín đồ Phật giáo ở khắp nơi trên thế giới. Chính như ngài Huyền Trang ở Trung Hoa khi sang Ấn Độ thỉnh kinh cũng có kể lại việc đến chiêm ngưỡng các thánh tích ấy.

Tuy vậy, nhìn chung thì rất ít người có đủ may mắn để được đến lễ Phật trước nơi thờ xá-lỵ Phật, hoặc những nơi thánh tích. Vì vậy, người ta phải tạo ra những hình tượng của Phật để thờ cúng. Hình tượng của Phật tuy là do nơi một gốc mà ra, nhưng ở mỗi xứ sở khác nhau đều có cách thể hiện riêng của mình. Một mặt là do nơi nghệ thuật điêu khắc, tô vẽ ở nơi đó. Mặt khác, cũng phụ thuộc vào cách hiểu, cách suy nghĩ của con người ở đó về Phật pháp. Bởi vậy, ta không nên lấy làm lạ khi thấy pho tượng Phật ở Thái Lan không hoàn toàn giống với tượng PhậtTrung Quốc, lại càng không giống với Nhật Bản hay Triều Tiên. Nhưng những nét chính thì quả thật vẫn rất dễ nhận ra.

Ở các chùa, tượng Phật chính được thờ là tượng Phật tổ Thích-ca. Theo Nam tông, người ta chỉ thờ độc tôn, nghĩa là riêng một tượng đức Thích-ca trên chánh điện mà thôi. Đối với Bắc tông, người ta tin rằng Phật có rất nhiều hóa thân, mà hết thảy đều không ngoài ý nghĩa giác ngộ viên dung. Vì vậy, có thể tùy theo hoàn cảnh, ý nghĩa mà sự cung kính cũng có những đối tượng khác nhau. Do đó, ngoài tượng Phật Thích-ca, trong chùa còn thờ nhiều tượng khác như Phật Di-lặc, Phật A-di-đà, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng ...

Cũng vậy, ở nhà riêng của hàng cư sĩ, người ta không chỉ thờ riêng là đức Phật tổ Thích-ca. Người ta còn có thể thờ các vị Phật và Bồ Tát khác nữa. Tuy nhiên, khác với ở chùa, có thể đồng thời thờ rất nhiều hình tượng, ở nhà riêng thì người ta thường chỉ chọn thờ một trong các hình tượng phù hợp với sở nguyện của mình mà thôi.

Phần đông cư sĩ tại gia mong cầu sự bình an trong gia đình là chính. Vì thế, đa số gia đình chọn thờ tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Đây là vị Bồ Táthạnh nguyện cứu khổ ban vui cho hết thảy chúng sanh, chỉ cần ai xưng niệm danh hiệu của ngài, là ngài sẽ quán xét theo âm thanh đó mà đến cứu khổ cứu nạn cho. Chính vì vậy mà ngài lấy hiệu là Quán Thế Âm. Hạnh nguyện của vị Bồ Tát này được Phật nói rõ trong phẩm Phổ Môn, thuộc bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Cũng có một số cư sĩ tại gia thờ tượng Phật tổ Thích-ca. Một số tu theo pháp môn Tịnh Độ thì thờ tượng Phật A-di-đà, hoặc Bồ Tát Địa Tạng.

Việc thờ Phật ở nhà riêng thường kết hợp với bàn thờ tổ tiên, theo cách bố trí là thờ Phật trên cao và thờ ông bà tổ tiên dưới bàn thấp hơn. Tuy nhiên, nhất thiết phải có hai lư cắm hương riêng biệt.

Hình thức thờ Phật ở nhà riêng ngày nay phổ biến khá rộng rãi. Điều đó rất có lợi cho việc truyền bá giáo pháp của Phật, vì những cư sĩthờ Phật ở nhà thường mời thỉnh các vị tăng sĩ đến nhà để tụng kinh hộ niệm, hoặc cầu an, hoặc cầu siêu, trong những khi gia đình hữu sự. Nhất là việc tụng kinh A-di-đà vào những ngày kỵ giỗ ông bà tổ tiên là điều rất tốt, vì nhân đó mà người ta thường cúng chay, hạn chế được sự sát sanh. Những dịp được mời đến nhà cư sĩ để tụng kinh là những dịp tốt để chư tăng truyền dạy Phật pháp cho hàng cư sĩ, đồng thời trừ phá những sự mê tín dị đoan, tà kiến trong chốn dân gian. Và quan trọng hơn hết là làm cho hàng cư sĩ hiểu rõ được ý nghĩa đúng đắn của việc thờ Phật.

Thờ Phật ở nhà là sự nhắc nhở hàng ngày để người cư sĩ không quên lời Phật dạy, luôn cố gắng giữ tròn Năm giới mà mình đã thọ nhận, cũng như giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống phải giữ cho phù hợp với lời Phật dạy. Tuy nhiên, cũng có không ít cư sĩ không hiểu được ý nghĩa chân chính này, xem việc thờ Phật như để cầu xin được ban phước tránh họa, hoặc có thể giúp mình có nhiều may mắn hơn trong cuộc sống. Cách hiểu này không phù hợp với lý nhân quả của nhà Phật, khiến cho người ta thường trở nên tiêu cực, thụ động, quên mất rằng những việc tốt xấu trong đời hết thảy đều do nơi nghiệp nhân mà mình đã tạo ra dẫn đến.

Đạo Phật truyền vào nước ta từ rất sớm. Cho đến những năm đầu của thế kỷ 11, đạo Phật đã trở thành quốc giáo. Từ đó về sau, từ vua chúa cho đến quan thuộc cũng đều hết lòng ủng hộ Phật pháp, thậm chí có nhiều vị vua về cuối đời cũng chính thức xuất gia. Vì vậy, đạo Phật đã hình thành và phát triển khắp mọi miền đất nước, từ thành thị đến nông thôn. Việc thờ cúngtin theo Phật đã trở nên quen thuộc ở khắp nơi, đâu đâu cũng có.

Tuy nhiên, Phật giáo không chuộng ở số lượng mà chủ yếu xem trọng hiệu quả thực tiễn của việc truyền dạy giáo pháp. Vì vậy, việc giảng giải ý nghĩa chân chính của việc thờ cúng cho hàng cư sĩ được rõ hiện nay vẫn còn là một trách nhiệm quan trọng, nặng nề nhất của các vị tăng sĩ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11606)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11922)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11090)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12049)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12544)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10742)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17963)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11714)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9931)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10158)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12337)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15320)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11220)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14310)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12070)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15305)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11983)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12386)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12063)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10594)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12541)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13141)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14771)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12635)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16522)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19621)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13091)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12641)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12227)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11816)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10877)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13468)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11922)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11824)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11618)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12748)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14492)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15644)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13591)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12870)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9845)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17994)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11143)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9052)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12153)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13028)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10281)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12172)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15282)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16576)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12186)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11444)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14244)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19654)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14135)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24564)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10662)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant