Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lễ thọ giới Tỳ-kheo

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13701)
Lễ thọ giới Tỳ-kheo

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

TỲ-KHEO VÀ TỲ-KHEO NI

LỄ THỌ GIỚI TỲ-KHEO

Bài này của phái Đàm-vô-đức-bộ, ngài Đàm-đế soạn năm 254 theo Dương lịch.

Trước hết, người xin thọ cụ túc giới đứng trước chư tăng mà thưa thỉnh hòa thượng rằng:

Kính bạch đại đức, xin một lòng thương tưởng đến tôi. Tôi tên là ... ... xin thỉnh đại đức làm hòa thượng. Xin đại đức vì tôi làm hòa thượng, tôi nhờ nương theo đại đức mà có thể thọ giới cụ túc. Xin đại đức lấy lòng từ bi thương xót tôi.

Thưa thỉnh như vậy ba lần. Như vị thầy nhận lời, sẽ nói là: “Tốt lắm, tôi nhận lời.”

Khi ấy, chúng tăng cho người muốn thọ giới lui ra, đến một chỗ chỉ có thể nhìn thấy nhưng không nghe được nơi giới đàn. Vị giới sư sẽ thưa hỏi trước đại chúng rằng:

Bạch chư đại đức, trong các vị đây, xin hỏi ai có thể vì đệ tử này mà nhận làm giáo thọ sư hay chăng?

Vị tỳ-kheo nào trong đại chúng nhận làm giáo thọ sẽ bước ra trả lời: “Tôi có thể nhận làm.”

Khi ấy, vị giới sư liền thưa trước chúng rằng :

Kính bạch chư đại đức tăng! Đệ tử đây tên là ...(tên người xin thọ giới) ... theo hòa thượng ...(tên vị hòa thượng đã nhận thỉnh) ... cầu thọ cụ túc giới. nếu chư tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, thì đại đức ... (tên vị đã nhận làm giáo thọ) sẽ làm giáo thọ.

Nếu đại chúng yên lặng tức là đã ưng thuận. Vị giáo thọ liền đến chỗ người xin thọ giới mà hỏi rằng:

Đây là ba tấm y an-đà-hội, uất-đa-la-tăng, tăng-già-lê, đây là bình bát. Những thứ này có phải là của ông hay chăng?

Người thọ giới đáp: “Thưa, đúng là của tôi.”

Vị giáo thọ dạy tiếp:

Ông nên nghe cho rõ đây. Giờ là lúc phải chí thành, lúc phải nói lên sự thật. Nay ta hỏi con, điều nào đúng thật, phải thưa là đúng thật, như có gì không thật, phải thưa là không thật.

Sau đó, vị giáo thọ lần lượt hỏi người xin thọ giới về các già nạn.

Ông có phạm vào biên tội không?

Ông có quan hệ không đúng đắn với tỳ-kheo ni không?

Ông có vì dụng ý xấu mà muốn xuất gia không?

Trước đây ông có theo ngoại đạo, xin thọ giới rồi trở lại theo ngoại đạo, nay đến xin thọ giới nữa hay không?

Ông có phải người đã thiến dương vật không?

Ông có phạm các tội giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng... hay không?

Ông có phải hạng bán nam bán nữ không?

Ông tên là gì?

Hòa thượng của ông tên là gì?

Ông đã đủ hai mươi tuổi hay chưa?

Cha mẹđồng ý cho ông xuất gia hay không?

Ông có phải là người còn đang làm việc công, hoặc đang thiếu nợ hay không?

Ông có mắc các chứng bệnh nan y, bệnh tâm thần hay không?...

Người thọ giới phải lần lượt trả lời thông suốt từng câu hỏi trên. Nếu vướng phải một trong các vấn đề ấy thì không thể cho thọ giới. Thầy giáo thọ lại nói tiếp:

Những điều ta đã hỏi ông đây, chúng tăng rồi cũng sẽ hỏi lại như vậy. Ông lại phải như thật mà đáp không được sai khác.

Sau khi hỏi xong, thầy giáo thọ trở lại chỗ giới đàn, đứng thẳng người thưa với đại chúng rằng:

Kính bạch chư đại đức tăng! Đệ tử tên ... ... theo hòa thượng ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nếu như đã phải lúc thích hợp, chư tăng đều ưng thuận, tôi vừa đến hỏi xong về các già nạn, xin cho phép đệ tử ấy vào đây để đại chúng xem xét.

Như đại chúng không có ai lên tiếng, tức là đã ưng thuận, thầy giáo thọ liền lớn tiếng gọi người xin thọ giới: “Hãy vào đây.”

Khi người xin thọ giới đã vào đến, liền dạy đưa y bát cho vị giới sư, rồi làm lễ hết thảy chúng tăng. Sau đó, đến trước vị giới sưcầu thọ giới như thế này:

Kính bạch chư đại đức tăng! Tôi theo hòa thượng ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay xin chúng tăng thuận cho tôi được thọ cụ túc giới, hòa thượng là ... ... Xin chúng tăng từ bi thương xót cho tôi được thọ giới.

Cầu xin như vậy đủ ba lần. Vị giới sư liền đứng ra thưa với đại chúng rằng:

Kính bạch chư đại đức tăng. Đệ tử tên ... ... đây theo hòa thượng ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay đối trước chúng tăng xin được thuận cho thọ cụ túc giới, hòa thượng là ... ... Nếu như đã phải lúc thích hợp, chư tăng đều ưng thuận, tôi xin hỏi đệ tử ... ... về các sự ngăn trở việc xuất gia.

Sau khi thưa trước đại chúng như vậy rồi, liền nói với người xin thọ giới rằng:

Ông nên nghe cho rõ đây. Giờ là lúc phải chí thành, lúc phải nói lên sự thật. Nay ta hỏi ông, điều nào đúng thật, phải nói là đúng thật, như có gì không thật, phải nói là không thật.

Sau đó, vị giới sư lập lại các câu hỏi mà thầy giáo thọ đã hỏi lúc nãy. Người xin thọ giới phải như thật trả lời thông suốt.

Nếu trả lời không có gì trở ngại, vị giới sư liền thưa trước đại chúng rằng:

Kính bạch chư đại đức tăng. Đệ tử tên ... ... đây theo hòa thượng ... ... cầu thọ cụ túc giới, nay xin với chúng tăng cho được thọ cụ túc giới, hòa thượng là ... ... Đệ tử tên ... ... tự nói là trong sạch, không có các sự ngăn trở việc xuất gia, đã đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ. Nay xin chúng tăng cho đệ tử này thọ cụ túc giới. Trong chư đại đức tăng, vị nào ưng thuận xin lặng yên chấp nhận, vị nào không ưng thuận xin tùy tiện nói ra.

Vị giới sư lập lại như vậy đến ba lần. Nếu trong chúng tăng không có ai phản đối, tức là đã chuẩn thuận cho việc thọ cụ túc giới. Mọi việc cứ y theo như vậy tiến hành.

Vị giới sư nói tiếp với người xin thọ giới:

Ông hãy lắng nghe đây. Đức Như Lai Vô sở trước Chánh đẳng giác đã dạy bốn pháp ba-la-di. Nếu tỳ-kheo nào phạm vào thì không được nhận là tỳ-kheo nữa, không phải hàng đệ tử Phật. Ông hãy nghe cho rõ các pháp ấy.

1. Không được phạm vào sự dâm dục, làm chuyện không trong sạch. Nếu tỳ-kheo không giữ hạnh trong sạch, làm chuyện dâm dục, thậm chí với loài súc sanh, không còn là sa-môn, không phải là đệ tử Phật nữa. Như gạch đá đã bể nát ra, không thể nào hợp lại được nữa. Ông thọ giới này trọn đời không được phạm vào, có thể giữ được hay không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

2. Không được trộm cắp, cho dù là những món cỏ lá nhỏ nhặt. Nếu tỳ-kheo trộm lấy của người khác, hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác trộm lấy, tự mình chặt phá, hoặc sai bảo người khác chặt phá, hoặc chôn giấu, hoặc làm thay đổi màu sắc để cho đồ vật ấy trở thành của mình, không còn là sa-môn, không phải đệ tử Phật nữa. Như người đã bị cắt đứt đầu, không thể sống lại được. Ông thọ giới này trọn đời không được phạm vào, có thể giữ được hay không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

3. Không được cố ý đoạn dứt sanh mạng của bất cứ chúng sanh nào, cho đến loài nhỏ nhoi như sâu kiến cũng vậy. Nếu tỳ-kheo tự tay đoạn dứt sanh mạng của người, hoặc cầm dao bén đưa cho người khác, bảo người khác là nên chết, khen ngợi, khuyến khích sự chết, dùng thuốc độc, hoặc phá thai, hoặc thư ếm, nguyền rủa người ta cho chết, dù tự mình làm hoặc chỉ bảo sai khiến người khác làm đều không còn được xem là sa-môn, là đệ tử Phật nữa. Như cây đa-la, trong ruột cây đã bị cắt đứt thì không thể sống được nữa. Ông thọ giới này trọn đời không được phạm vào, có thể giữ được hay không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

4. Không được nói lời gian dối, sai sự thật, cho đến dù là lời nói chơi để đùa vui cũng không được. Nếu tỳ-kheo không chân thật, tự mình không có mà xưng là đã chứng đắc pháp cao thượng, được định, được Bốn không định, đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm hoặc A-la-hán, lại nói có trời, rồng... đến cúng dường cho mình, như vậy không phải là sa-môn, không phải là đệ tử Phật nữa. Như cây kim may bị sứt mất đít kim, chẳng thể dùng lại được nữa. Ông thọ giới này trọn đời không được phạm vào, có thể giữ được hay không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Sau đó, sư Yết-ma dạy cho bốn điều để tỳ-kheo suốt đời nương theo, gọi là Tứ y pháp:

1. Người xuất gia trọn đời chỉ mặc y phục may từ những vải vụn đã bỏ đi mà chắp lại. Ông có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Tuy nhiên, nếu có ai cúng dường y phục mang nhuộm cho xấu đi thì có thể dùng được.

2. Người xuất gia trọn đời chỉ đi khất thực mà ăn. Ông có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Tuy nhiên, nếu có những dịp đặc biệt như chúng tăng cử đi thọ thực, thí chủ mang đến cúng dường, các ngày mùng 8, rằm, mùng một, hoặc thức ăn thường dùng của chúng tăng, hoặc thí chủ thỉnh đến cúng dường, có thể thọ nhận.

3. Người xuất gia trọn đời chỉ ngủ dưới gốc cây. Ông có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Tuy nhiên, nếu có ai cúng dường phòng riêng, phòng nhỏ, nhà đá, nhà hai phòng... thì có thể thọ nhận.

4. Người xuất gia trọn đời chỉ dùng những món đắng, hôi mà làm thuốc khi có bệnh. Ông có thể giữ được không?

Người thọ giới đáp: “Thưa, được.”

Tuy nhiên, nếu có ai cúng dường sữa, dầu, sữa tươi, mật... thì có thể thọ nhận.

Cuối cùng, vị Yết-ma tuyên bố trước đại chúng rằng:

“Như vậy, ông đã được thọ cụ túc giới rồi, pháp yết-ma thọ giới như vậy đã thành tựu, được tốt đẹp, có hòa thượng, a-xà-lê đúng theo phép tắc, có chúng tăng chứng minh đầy đủ. Ông nên khéo thọ nhận giáo pháp, nên khuyến hóa việc làm phước, tu sửa tháp Phật, cúng dường chúng tăng. Hòa thượng và thầy giáo thọ dạy ông những gì đều đúng theo giáo pháp, phải một lòng vâng theo, không được trái lời... Hãy siêng năng học hỏi, tham thiền, tụng kinh, chuyên cần cầu phương tiện, ở trong pháp Phật được chứng đắc các quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Việc phát tâm xuất gia ban đầu của ông có như thế mới không uổng phí, được quả báo không cùng tận. Như có điều chi chưa hiểu, hãy thưa hỏi hòa thượng và thầy giáo thọ.”

(Nghi thức thọ Đại giới của tỳ-kheo đến đây là hoàn tất. Nên cho người thọ giới lui ra.)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11724)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12043)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11197)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11434)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12139)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12646)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10861)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18101)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11818)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10040)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10241)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12449)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15452)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11315)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14422)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12210)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15499)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12093)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12491)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11285)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12167)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10702)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12624)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13266)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14972)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12789)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16669)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19772)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13206)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12769)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12367)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11960)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 11012)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13632)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12042)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11936)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11728)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12856)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14628)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12710)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15768)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13724)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 13003)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9958)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18119)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11260)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9154)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12281)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13147)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10380)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12271)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15469)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16701)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12324)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11593)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14377)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19852)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14242)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24736)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10775)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant