Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thập giới của Sa-di ni

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 12733)
Thập giới của Sa-di ni

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

SA-DI VÀ SA-DI NI

THẬP GIỚI CỦA SA-DI-NI

Bài này của một nhà sư đời Hậu Hán bên Trung Nguyên soạn, khoảng thế kỷ thứ hai theo Dương lịch, đã mất tên.

Mười giới của sa-di ni thật ra không khác với mười giới của sa-di. Tuy nhiên, bài này được soạn với ý khuyến khích, sách tấn việc trì giới, nên chúng tôi cũng đưa vào để giúp ích thêm cho người muốn tu học.

1. Giới đầu tiên của sa-di ni là không được giết hại sanh mạng. Hãy thương yêu muôn loài như cha mẹ thương con, mở rộng lòng thương đến hết thảy các loài động vật lớn nhỏ, xem như con ruột của mình. Thế nào gọi là không giết hại? Phải tự phòng hộ cả ba nghiệp thân, miệng và ý. Không được tự tay mình giết hại hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác giết hại. Không được ăn thịt những con vật mà mình nhìn thấy hoặc nghe biết, hoặc có nghi ngờ về sự giết hại chúng, hoặc người khác đã giết hại chúng là vì mình.

Sa-di ni phải cẩn thận ngay cả trong lời nói của mình. Không được nói việc muốn giết hại, muốn trả thù, hoặc nói rằng giết hại là thích thú, khoái chí, hoặc khen chê bình phẩm con vật này là ốm, con vật kia là mập, nhiều thịt ít thịt, hoặc thịt ngon thịt dở... Trong ý cũng không được nghĩ đến những chuyện như vậy. Hãy thương tưởng chúng sanh như thương chính thân mình, như cha mẹ, con cái của mình. Hãy hết lòngcầu đạo Đại thừa giải thoát. Đó là giới đầu tiên của sa-di ni.

2. Giới thứ hai của sa-di ni là không được trộm cắp. Không được lấy của ai dù là những vật nhỏ nhặt, ít giá trị nhất. Chủ nhân không tự ý cho mình thì không được lấy. Miệng cũng không được nói đến, tâm ý không nghĩ đến những chuyện trộm cắp. Mắt không mê đắm theo hình sắc, tai không mê đắm theo âm thanh, mũi không mê đắm theo mùi hương, lưỡi không mê đắm theo vị ngon ngọt, thân không mê đắm y phục tốt đẹp, tâm không mê đắm sự tham muốn. Đối với sáu điều ấy đều không mê đắm thì có thể đứng vững, tự làm chủ được mình bằng trí tuệ sáng suốt, như vậy gọi là không mắc vào tội trộm cắp. Đó là giới thứ hai của sa-di ni.

3. Giới thứ ba của sa-di ni là không được phạm vào chuyện dâm dục. Như thế nào gọi là không được phạm vào dâm dục? Phải một lòng trong sạch. Thân không làm chuyện dâm dục, miệng không nói lời dâm ô, cho đến trong tâm cũng không nghĩ đến. Tự giữ mình trong sáng, như gió thổi giữa hư không, không gì vướng mắc được. Thân không làm, mắt không nhìn đến, tai không nghe, mũi không ngửi, miệng không nói, tâm không tưởng đến, tất cả đều xa lìa chuyện dâm dục. Hãy quán xét thân này chẳng qua chỉ là tứ đại giả hợp. Trong tứ đại ấy, đất nước gió lửa đều chẳng có món nào thật sự là ta, là người, không có cả thọ mạng, vậy chấp vào đâu mà có sự dâm dục, chấp vào đâu mà vướng mắc? Tâm ý luôn hướng đến Không, Vô tướng, Nguyện. Đó là giới thứ ba của sa-di ni.

4. Giới thứ tư của sa-di ni là không được nói hai lưỡi, nói lời độc ác. Phải nói những lời ôn hòa, hiền hậu. Không thấy đừng nói là thấy, không nghe đừng nói là nghe, thấy điều ác chớ nên truyền bá, nghe điều ác chớ nên lập lại. Phải thẳng thắn mà tránh xa những lời độc ác, thường làm theo bốn tâm từ, bi, hỷ, xả. Không nói những lời sai quấy. Nói ra lời nào đều là việc đạo, không được bàn luận chuyện thế sự, chính sự. Thường ngợi khen kinh pháp, giới pháp chính của Bồ Tát, tâm chí hướng theo Đại thừa, chẳng phải vì những việc học hỏi nhỏ nhặt, nên thường làm theo bốn tâm vô lượng. Đó là giới thứ tư của sa-di ni.

5. Giới thứ năm của sa-di ni là không được uống rượu. Chẳng những không được nghiện rượu, mà cũng không được nếm thử rượu nữa. Rượu dẫn đến rất nhiều lỗi lầm. Rượu làm cho bại hoại phong hóa, tan rã gia đình, nguy hại đến sức khỏe và mạng sống của bản thân, muốn đi bên này lại đến bên kia, muốn nắm vật này lại cầm vật nọ; mất hẳn chủ ý, không thể tụng kinh, không thể thờ kính Tam bảo; khinh thầy, bỏ bạn, bất hiếu với cha mẹ; tâm ý bế tắc, kéo dài sự ngu muội mãi mãi, không thể thấy được đạo lớn, tâm ý không có nhận thức. Vì vậy nên không được uống rượu, chỉ mong muốn sao cho lìa khỏi được năm ấm, năm dục, năm triền cái, chứng đắc năm thần thông, vượt qua năm nẻo. Đó là giới thứ năm của hàng sa-di ni.

6. Không được giữ lấy các loại hoa và hương thơm để tự xông ướp, trang sức, làm thơm làm đẹp cho mình. Các thứ quần áo, giày dép, chăn màn của mình dùng, đều không được tô điểm bằng năm màu chính để cho tăng phần đẹp đẽ. Không được dùng các loại y phục, trang sức quý giá như gấm vóc, tơ lụa, vòng vàng, chuỗi ngọc... cũng không được nhìn ngắm những thứ ấy. Phải mặc y phục theo đúng pháp bằng vải thô xấu, nhuộm những màu xấu xí vào. Khi đi ra ngoài thì phải cúi mặt xuống mà đi. Trong lòng mong muốn trừ bỏ sáu điều nguy hại thì phải lấy giới hạnh làm hương thơm, lấy việc cầu tụng pháp mầu sâu thẳm làm của cải quý giá, cầu được Ba mươi hai tướng tốt làm chuỗi ngọc trang sức, lấy việc vun trồng các vẻ đẹp oai nghi của thân làm trang phục che chở cho mình. Nguyện được sáu phép thần thông không ngăn ngại, lấy sáu pháp ba-la-mật mà dẫn dắt cho người khác, đó là giới thứ sáu của sa-di ni.

7. Giới thứ bảy của sa-di ni là không được ngồi, nằm trên ghế cao, giường rộng có khảm bạc vàng và bao phủ bằng gấm vóc quý giá đủ màu. Không được nghĩ đến hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác tìm cách để có những giường, ghế tốt đẹp, chiếu, gối, màn, quạt có tô điểm đẹp đẽ đủ màu. Không được mang những vòng nơi cánh tay, nhẫn trong ngón tay. Những món quý là chánh trực, đức tin, giới hạnh, đức tàm quý, bố thí, học rộng, trí tuệ, một lòng chuyên cần thường cầu chánh định; phải lấy những món ấy mà làm giường chiếu của mình, lấy tâm không dao động, sự sáng suốt tự nhiên mà làm chỗ ngồi. Bảy giác chi kiên định không lay chuyển, chí hướng về nơi tâm đạo. Đó là giới thứ bảy của sa-di ni.

8. Giới thứ tám của sa-di ni là không được nghe ca hát, đàn, trống, sáo, phách các thứ âm nhạc. Không tự mình phạm vào, cũng không được chỉ bảo, sai khiến người khác làm. Thường tự tu thân, làm theo chánh pháp, không phạm vào tà hạnh. Một lòng nương theo Phật, lấy việc tụng kinh, thực hành chân chánh làm niềm vui trong đạo pháp của mình, không chạy theo những thú vui thế tục. Nghe kinh suy xét hiểu thấu nghĩa mầu. Khi không có bệnh thì không được ngồi lên các thứ xe cộ. Nên nghĩ đến sự thanh thản nhẹ nhàng khi đạt được tám loại thần thông chẳng thể nghĩ bàn, xem đó là xe cộ dùng để vượt qua tám nạn. Đó là giới thứ tám của sa-di ni.

9. Giới thứ chín của sa-di ni là không được tích lũy, chứa giữ những vật quý báu. Không được tự mình lấy, cũng không được chỉ bảo, sai khiến người khác lấy. Thường tự mình phải chuyên cần, tinh tấn, lấy đạo pháp cho là quý báu, lấy kinh điển cho là cao trổi, lấy ý nghĩa cho là mầu nhiệm, lấy việc hiểu rõ ba môn giải thoát: Không, Vô tướng, Vô nguyện làm căn bản, thẳng đến ba cửa giải thoát ấy, chẳng cầu sự tham dục. Lòng chỉ cầu được xa lìa chín sự phiền não, an trụ rất lâu trong đạo pháp không có giới hạn cùng tột, mà cũng là không có chỗ trụ. Đó là giới thứ chín của sa-di ni.

10. Giới thứ mười của sa-di ni là không được ăn trái giờ. Thường phải ăn đúng giờ, không được để quá. Khi đã qua giờ ngọ rồi không được ăn nữa. Cho dù có món ngon đến đâu cũng không ăn, lại cũng không chỉ bảo, sai khiến người khác phạm vào, thậm chí tâm ý cũng không được nghĩ đến. Cho dù có món ăn ngon tột bật tự nhiên được mang đến cũng không ăn. Dù những người quyền cao chức trọng mà quá giờ đến cúng dường món ăn cũng không ăn. Dù cho phải chết cũng chẳng phạm giới này. Thường suy nghĩ đến việc thiền định, còn hết thảy món ăn thức uống chỉ cần vừa đủ để nuôi sống mà thôi. Phải cầu hiểu hết những điều sâu xa, đạt tới mọi chí nguyện, chứng đắc Mười lực, lấy đó làm món ăn thức uống của mình. Đó là giới thứ mười của sa-di ni.

° ° °

Sa-di ni đã thọ mười giới rồi, nguồn đạo tư duy được thuần thục. Có thể giữ trọn vẹn được mười điều này thì cho đến năm trăm giới cũng tự nhiên đầy đủ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19703)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23962)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41219)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19694)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23981)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21747)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23312)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27505)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26574)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29317)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33198)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20194)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25773)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31319)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38578)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21438)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44262)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29828)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42206)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22140)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45758)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32111)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23959)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24391)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29279)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33920)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27683)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32135)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21065)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28850)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21582)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28064)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22074)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21440)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19500)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19248)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29186)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20624)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28300)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33184)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21376)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39625)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21551)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19377)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26397)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24828)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21757)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22385)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29134)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22559)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23517)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21239)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35325)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24547)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant