Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Cư sĩ tại gia

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11530)
3. Cư sĩ tại gia

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

CƯ SĨ TẠI GIA

Cư sĩ tại gia, hay chỉ thường gọi là cư sĩ, tức là những thiện nam tín nữ tin theo Phật, đã thọ Tam quyNgũ giới. Vào thời đức Phật, ngài vẫn gọi chung hết thảy đệ tử của mình là Bốn chúng. Trong bốn chúng đó, có hai chúng xuất gia là tỳ-kheo và tỳ-kheo ni, và hai chúng tại gia là ưu-bà-tắc và ưu-bà-di. Ưu-bà-tắc tức là hàng cư sĩ nam giới, có khi cũng gọi là cận sự nam, và ưu-bà-di là cư sĩ nữ giới, có khi cũng gọi là cận sự nữ.

Cư sĩ tại gia là những người mộ đạo, nhưng không thọ đại giới nên không kể vào giáo hội Tăng-già. Bởi thế, họ không được đứng ngang hàng với tăng sĩ trong những kỳ Đại hội, khi tuyên đọc Giới bổn, hoặc khi tụng đọc kinh điển. Họ chỉ được dự những ngày lễ cúng, những buổi thuyết pháp, dâng cúng lễ vật, cầu nguyện, lễ Phật, và được nghe chư tăng giảng giải đạo lý.

Cư sĩ tại gia ít nhất cũng đã thọ lễ quy y, nghĩa là được một vị tăng sĩ chứng minh cho trong một buổi lễ chính thức phát nguyện quy y Tam bảo. Đó là quy y Phật, quy y Phápquy y Tăng. Phát nguyện quy y rồi, các vị này nhận một vị tăng sĩ làm bổn sư của mình, và được vị này truyền cho Năm giới, tức là năm điều răn dạy giúp cho cuộc sống trở nên chân chính, đúng đắn. Cư sĩ giữ được trọn vẹn năm giới thì tự nhiên mọi điều cao quý khác cũng dần dần đạt được. Năm giới ấy là:

1. Không sát sanh
2. Không trộm cắp
3. Không tà dâm
4. Không nói dối
5. Không uống rượu

Ngoài ra, cư sĩ đã thọ năm giới rồi thì cũng được khuyên nên tránh không buôn bán năm thứ này: khí giới, con người, các loại thịt, rượu và thuốc độc.

Đôi khi Năm giới được hiểu là năm giới cấm. Hiểu như vậy, ban đầu không thấy gì là khác biệt. Nhưng với người học Phật lâu năm thì có chỗ trở ngại không hay, vì không hoàn toàn phù hợp với tinh thần Phật giáo.

Giới tức là ngăn ngừa. Ngăn không cho làm điều này hoặc điều khác, nghĩa là giữ cho sự việc đừng xảy ra. Cấm cũng là không cho làm, cũng là giữ cho sự việc không xảy ra. Nhưng ngăn ngừa không phải là cấm. Bởi ngăn ngừa ở đây tức là chỉ ra cho người ta biết phân biệt đúng sai, hay dở, để họ có thể tự mình tránh xa điều xấu mà không làm. Nên Năm giới cần được hiểu là năm điều răn dạy thì mới đúng. Như hiểu là cấm, tất nhiên kẻ phạm vào phải bị trừng phạt. Nhưng theo cách hiểu của Phật giáo thì kẻ làm ác gặp ác, không phải là sự trừng phạt mà chỉ là theo quy luật nhân quả tất yếu. Không có một đấng tối cao nào có quyền lực phán xét, trừng phạt chúng ta, chỉ có chính hành vi của ta sẽ dẫn đến những kết quả tốt hay xấu cho ta mà thôi. Vì thế, đức Phật chưa bao giờ nói cấm các đệ tử của ngài làm điều này, điều khác... mà chỉ khuyên dạy chúng ta không nên làm điều này hoặc điều khác mà thôi.

Có một sự khác biệt khá lớn về mặt tâm lý giữa hai khái niệm này. Khi người cư sĩ hiểu rằng mình đã thọ nhận năm điều cấm làm, họ sẽ có cảm giác nặng nề, căng thẳng hơn là năm điều không nên làm. Bước đầu thọ giới, điều thực tếtrong đời sống trần tục, không sớm thì muộn một cư sĩ cũng sẽ có lúc nào đó phạm giới, như nói dối, uống rượu... chẳng hạn. Với tâm lý của người phạm vào điều cấm, sẽ dễ nảy sinh sự sợ sệt, tự ti, mặc cảm. Ngược lại, khi nghĩ rằng mình đã không làm đúng với một điều răn dạy, người ấy sẽ phát sinh lòng ăn năn hối lỗi, muốn phục thiện và sẽ cầu được sám hối để không tái phạm. Nói như vậy, không phải là tạo sự dễ dãi, khuyến khích người phạm giới, nhưng thật ra đó chính là hiệu quả thiết thực của Năm giới trong việc hoàn thiện con người.

Cư sĩ thọ giới rồi, quá trình giữ giới cũng tự nhiên trải qua nhiều thứ bậc. Ban đầu, phải luôn ghi nhớ trong tâm trí mình những điều đã được truyền dạy. Khi dự một cuộc vui, phải nhớ mình đã thọ giới không uống rượu. Trong việc giao dịch buôn bán, dù muốn được lợi nhiều, cũng phải nhớ mình đã thọ giới không nói dối... Cứ như vậy, nhất cử nhất động hàng ngày đều phải tự ngăn ngừa mình, không cho phạm vào những giới đã thọ trì.

Tại sao phải như vậy? Đó là vì cái thói quen đã huân tập từ rất lâu ngày trước lúc thọ giới, hầu như hết thảy đều là phạm giới. Chỉ cần trong khi tán chuyện với bạn bè, dù chỉ để cho câu chuyện thêm phần vui tai, hấp dẫn, ta cũng không ngại gì mà không thêm thắt, sửa đổi một đôi điều. Mà nay thọ giới rồi thì việc ấy là không nên làm nữa, huống chi là nói dối để lừa gạt người? Lại như trước đây, gặp người vợ của bạn mình nhan sắc xinh đẹp, cợt nhã một đôi câu cũng là chuyện thường, mà lại rất thích ý nữa. Nay thọ giới rồi, chuyện ấy cũng không nên làm nữa. Vì vậy, mỗi mỗi việc làm khi đã thọ giới rồi đều phải suy xét thận trọng, không thể bừa bãi, phóng túng như xưa.

Vậy nên người nghiêm túc giữ giới thì chỉ trong thời gian ngắn có thể thay đổi rất đáng kể những thói hư tật xấu lâu ngày của mình, có thể tạo ngay được không khí an ổn, hòa dịu trong gia đình cũng như trong quan hệ giao tiếp xã hội.

Người kiên trì thọ giới lâu ngày lại có những thay đổi khác nữa. Vì đã thuần thục nên chẳng còn phải suy nghĩ nhiều đến giới. Nhất cử nhất động khi ấy đều tự nhiên phù hợp với Năm giới mà không cần phải suy nghĩ, ngăn ngừa. Mở miệng chỉ nói lời chân thật, không có sự suy nghĩ rằng “Ta đang giữ giới không nói dối.” Thấy rượu tự tránh, không hề phải suy nghĩ rằng “Ta đang giữ giới không uống rượu.” Mọi việc thảy đều như thế, nên dù không nghĩ đến mà không hề phạm giới. Giữ giới được đến mức này thì thân tâm tự nhiên đoan chánh, người chung quanh tự khắc phải nhận ra, biết ngay đây là bậc đức độ, thanh tịnh.

Người thọ trì Tam quy và giữ trọn Năm giới thì vĩnh viễn không bị đọa vào các đường ác. Người ấy dù sống ở đâu cũng được các vị hộ pháp, thiện thần bảo vệ che chở. Đó gọi là sự cảm ứng, không có gì là huyền hoặc cả. Ngày nay, cư sĩ thọ Năm giới về hình thức thì rất nhiều, nhưng người thực sự thọ trì không có là bao. Những kẻ chỉ giữ giới qua loa tùy tiện, nay hủy mai phạm thì làm sao có thể biết được sức vi diệu của Năm giới?

Mặt khác, các vị tăng sĩ truyền giới cho cư sĩ ngày nay phần đông rất dễ dãi, tùy tiện, nên người thọ giới cũng không ý thức hết được tầm quan trọng của việc thọ giới. Có những người cho con cái nhận lễ Quy y, thọ Năm giới từ lúc một hai tuổi, chúng đã biết gì để thọ trì? Đến khi lớn lên lại cứ nghĩ mình đã quy y, đã là Phật tử rồi, nên không để tâm đến việc thọ giới nữa, làm sao có được sự lợi ích của người trì giới? Phần nhiều các lễ quy y truyền giới cũng được tổ chức có phần nghi lễ, mà không chú trọng nhiều đến sự giáo huấn, giảng giải cho cư sĩ có được cách hiểu đúng đắn. Bước khởi đầu như vậy nên kẻ thọ giới rồi tùy tiện hủy phạm cũng là điều dễ hiểu.

Phần đông cư sĩ không hiểu được trọn vẹn những bổn phận của mình. Tuy họ thọ nhận Năm giới nhưng phần lớn vẫn nghĩ rằng đi chùa cúng Phật là để chuộc tội. Họ đem tiền bạc, đồ vật đến dâng cúng nơi Phật đường, nên nghĩ rằng tội lỗi của mình sẽ được ân xá! Để làm cho cư sĩ hiểu đúng ý nghĩa của việc đi chùa, lễ Phật, và biết tự soi rọi lại mình mà bỏ ác làm lành, quả là trách nhiệm rất nặng nề của các vị tăng sĩ thọ nhận cúng dường vậy.

Từ xưa tới nay và có lẽ mãi mãi về sau nữa, hàng cư sĩ luôn tôn trọng các bậc xuất gia. Người cư sĩ bận lo việc mưu sinh, chuyện cơm áo lúc nào cũng thúc bách, lại còn những quan hệ ràng rịt của gia đình, rõ ràngnghiệp lực còn nặng nề nên chưa thể thảnh thơi chọn con đường xuất gia. Vì vậy, họ rất kính phục đức hiền từ, tâm giải thoát, và sự giáo huấn, chỉ bày của tăng sĩ. Họ vẫn tự biết rằng muốn sống cuộc sống xuất gia không phải dễ, phải đoạn dứt biết bao điều mà kẻ thế tục không sao dứt bỏ. Họ cũng biết thiên chức của tăng sĩ là thanh cao, luôn tâm niệm những điều từ bi hỷ xả. Các ngài đã đủ ý chí quyết tâm rời bỏ đời sống ái dục gia đình, không màng công danh, lợi lộc nơi cõi tục. Họ cũng biết rằng trí huệđức độ của những bậc xuất gia là cao cả, có thể cứu vớt, nâng đỡ họ trong cơn nạn khổ, suy sụp về tinh thần. Vì vậy, họ rất chuộng việc cúng dường cho chư tăngGiáo hội. Với lòng cung kính, họ cúng dường, chu cấp đủ các thứ cần dùng, hoặc riêng cho từng vị tăng, hoặc chung cho cả nhà chùa. Họ chỉ suy nghĩ đơn giản là lập chút công đức để đời sau được hưởng sự sung sướng về vật chấttinh thần.

Được sinh làm người, có hai điều nên làm. Người đủ điều kiện thì nên cố gắng đạt đến trí huệ bằng cách học đạo tham thiền. Người không làm được như vậy, thì nên đem lòng từ bi bố thí tài vật cho chúng sanh tùy theo khả năng mình. Làm như vậy sẽ dẹp bỏ được tâm tham lam, lại tạo được phước đức để đời sau sinh ra sẽ có đủ điều kiện dễ dàng mà theo đường tu tập.

Người cư sĩ đa số chọn con đường bố thícúng dường. Chỉ trừ khi tăng sĩ không giữ được vai trò cao cả của mình, thì cư sĩ mới chê trách mà xa lánh. Chứ như các bậc nghiêm trì giới luật thì hết thảy ai ai cũng đều kính mộ mà tìm đến cúng dường. Dù rằng các vị cao tăng vốn chẳng ham tài vật, của cải, nhưng thiện nam tín nữ tự nhiên cảm đức các ngài mà muốn mang đến dâng cúng rất nhiều. Chính vì vậyxưa kia các ngài mới có thể lập nên những cảnh chùa nguy nga đồ sộ mà ngày nay ta vẫn còn thấy ở nhiều nơi trong cõi Ấn Độ, nhất là tại thành Ba-la-nại và xứ Dà-da.

Lại như trong lịch sử còn ghi chuyện vua A-dục hết lòng mộ đạo, cho đến mang vàng bạc, châu báu trong kho mà dâng cúng cho Giáo hội. Vào thế kỷ thứ sáu, lúc đạo Phật bắt đầu hưng thạnh ở Trung Hoa, vua Lương Võ Đế cũng là một vị cư sĩ rất nhiệt thành, từng cất chùa, xây tháp, cúng dường cho Giáo hội, bố thí cho nhân dân và khuyên bá tánh quy y Tam bảo. Vua Võ Đế và vua A-dục là hai vị hộ pháp chân chính của Giáo hội Tăng-già ở Trung Hoa và Ấn độ vậy. Còn như ở nước ta, xem lại lịch sử các đời Lý, Trần, thì thấy các bậc quốc vương đa số đều mộ đạo, cúng dường và hỗ trợ cho chư tăng rất mạnh mẽ.

Bố thí, cúng dường là những việc cư sĩ nên làm và dễ làm, vì có thể tùy theo khả năng của mình. Dù ít dù nhiều đều là những hạt giống lành, sẽ đi theo mình chẳng thể nào mất được. Tuy nhiên, ngoài việc bố thí, cúng dường, người cư sĩ cũng cần phải biết chọn cho mình một pháp môntu tập nữa.

Việc tham thiền nhập định tuy không phải là không làm được, nhưng quả là rất khó khăn đối với kẻ đang sống cuộc sống gia đình. Vì vậy, ngày xưa đức Phật cũng đã lường trước được những khó khăn của chúng sanh trong thời mạt pháp, tức là khi mà đạo đức nhiễu nhương, chánh tà lẫn lộn. Ngài có dạy rằng, thiện nam tín nữ ai có lòng thành, chí tâm niệm đức Phật A-di-đà thì sẽ được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A-di-đà. Những người thấy phù hợp mà chọn tu theo pháp môn niệm Phật đã lập nên một tông phái gọi là Tịnh độ tông.

Con người đời nay mê đắm trong vật chất, suy sụp tinh thần, không còn mấy ai đủ sức trí tuệtham thiền nhập định, vì vậyTịnh độ tông phát triển rất mạnh. Chẳng những cư sĩ, mà tăng sĩ cũng thế, đều dốc lòng niệm Phật, vì thấy rằng pháp môn này quả là rất phù hợp với những điều kiện của thời đại ngày nay.

Khi nói đến việc niệm Phật A-di-đà để cầu được vãng sanh cõi Phật, có nhiều người thấy là rất khó tin. Chính trong kinh A-di-đà, Phật cũng đã nói rõ rằng đây là một pháp môn rất khó tin nhận. Tuy nhiên, nếu ai quyết chí thực hành thì chẳng cần đợi đến khi vãng sanh cõi Phật, mà ngay ở đời này cũng đã tạo được cho mình một niềm tin sâu vững rồi.

Tại sao vậy? Chính trong khi đem hết tâm tríchí thành niệm Phật, người tu tự nhiên sẽ lắng đọng được hết thảy mọi vọng niệm, trừ diệt được tất cả mọi thứ phiền não, ô trược. Nhờ vậy mà tự nhiên nảy sanh được lòng tin sâu vững nơi đức Phật A-di-đà và dứt bỏ được lòng tham lam, ái luyến đối với cõi thế tục này. Lúc đó thì tự nhiên cõi tịnh độ liền hiện ở trong tâm, và người niệm Phật có thể chắc quyết mình sẽ vãng sanh về cõi Phật.

Sở dĩ pháp môn niệm Phật được xem là dễ thực hànhphù hợp hơn với người thời nay, là vì pháp môn ấy kết hợp được cả hai mặt tự lựctha lực.

Tự lực, ấy là sức mạnh của chính mình, lòng quyết tâm tu tập, hành trì không nản chí, chí thành niệm Phật không hề để cho sự biếng nhác, trì trệ ngăn cản, cũng không để cho những tham dục, ái luyến lôi kéo. Tự lực có mạnh thì mới có sự tu tập bền bỉ, mới chống lại được sự cám dỗ của những tham muốn thế tục.

Tha lực, là sức tin vào nguyện lực của Phật A-di-đà. Vì Phật A-di-đà từ khi còn làm Bồ Tát đã có nguyện rằng, khi ngài thành Phật, tất cả những chúng sanh nào chí thành niệm danh hiệu ngài đều sẽ được tiếp dẫn về cõi nước Cực Lạc của ngài.

Nếu đem so pháp môn niệm Phật với việc tu thiền chẳng hạn, thì sẽ thấy khác biệt rất nhiều. Người tu thiền phải hết sức tinh tấn, dựa vào sức mình là chính, vượt qua hết thảy mọi chướng ngạiđạt đến giải thoát. Ấy là pháp môn rất phù hợp với những bậc thượng căn đại trí. Còn kẻ trí thô đức mỏng, quả thật là sẽ rất khó khăn. Trong khi ấy, người tu niệm Phật có thể tùy sức của mình mà dần dần tu tập, lại được sự gia hộ độ trì của đức Phật, nên có thể tin chắc vào việc được giải thoát.

Thử làm một so sánh nhỏ. Người tu thiền giống như kẻ học bơi để bơi qua con sông rộng. Nếu bền chí và đủ sức lực thì tất sẽ vượt qua được. Còn người tu pháp môn niệm Phật như người nhờ ghe thuyền mà sang sông. Dù không được mạnh mẽ lắm, chỉ cần quyết chí sang sông tất cũng có thể sang được. Ghe thuyền, ấy chính là sức hộ niệm của đức Phật. Nhờ sức ấy mà người tu dễ dàng hơn trong việc đạt đến chỗ giải thoát.

Người cư sĩ sau khi đã quy y Tam bảo, nếu vun đắp được niềm tin ngày càng sâu vững, giữ trọn được Năm giới đã thọ nhận, thì tự nhiên sẽ cảm nhận được sức cảm hóa rất vi diệu của Phật pháp, lại nếu biết chọn pháp môn niệm Phật để hành trì thường xuyên, thì chắc chắn sẽ trừ diệt được hết thảy phiền não, khổ ách. Đạo Phật là đạo giải thoát. Và sự giải thoát ấy là dành cho tất cả mọi người chứ không phải chỉ dành riêng cho những bậc xuất gia.

Cư sĩ tuy còn nhiều vướng bận trong cuộc sống gia đình, nhưng nếu quyết lòng tu họcthực hành Phật pháp thì cũng sẽ đạt được những kết quả tốt đẹp, ngày càng hướng đến một cuộc sống cao thượng, thanh thoát hơn.


Ý kiến bạn đọc
08 Tháng Sáu 202000:59
Khách
Dạ hoan hỷ
24 Tháng Bảy 201908:03
Khách
Xin gửi cho tôi một bộ sách
TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19702)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23962)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41218)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19693)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23980)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21746)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23311)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27505)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26574)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29317)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33195)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20193)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25773)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31319)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38578)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21437)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44261)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29826)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42204)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22140)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45757)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32109)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23957)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24391)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29272)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33919)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27682)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32133)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21065)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28849)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21580)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28064)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22073)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21437)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19498)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19246)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29184)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20623)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28299)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33184)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21376)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39624)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21550)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19376)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26395)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24826)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21757)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22385)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29131)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22557)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23517)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21239)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35323)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24547)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant