Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

V. Một trăm bảy mươi tám pháp Ba-dật-đề

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11428)
V. Một trăm bảy mươi tám pháp Ba-dật-đề

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

GIỚI LUẬT TỲ-KHEO NI

V. MỘT TRĂM BẢY MƯƠI TÁM PHÁP BA-DẬT-ĐỀ

_ Kính bạch chư đại đức tỷ. Một trăm bảy mươi tám pháp ba-dật-đề này, nửa tháng phải tụng đọc lại một lần, được rút từ trong Giới kinh ra.

1. Như có tỳ-kheo ni nào biết là điều sai sự thật mà vẫn nói ra, phạm vào tội ba-dật-đề.

2. Như có tỳ-kheo ni nào dùng nhiều lời hủy nhục người, phạm vào tội ba-dật-đề.

3. Như có tỳ-kheo ni nào dùng cách nói hai lưỡi, phạm vào tội ba-dật-đề.

4. Như có tỳ-kheo ni nào ngủ qua đêm trong cùng một nhà với đàn ông, phạm vào tội ba-dật-đề.

5. Như có tỳ-kheo ni nào ngủ qua đêm trong cùng một nhà với người nữ chưa thọ giới cụ túc quá ba đêm, phạm vào tội ba-dật-đề.

6. Như có tỳ-kheo ni nào cùng với người chưa thọ cụ túc giới tụng đọc kinh điển, phạm vào tội ba-dật-đề.

7. Như có tỳ-kheo ni nào đem việc phạm tội thô ác của tỳ-kheo ni khác nói với người chưa thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp do chúng tăng sai khiến.

8. Như có tỳ-kheo ni nào đem việc mình chứng đắc hơn người nói với người chưa thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

9. Như có tỳ-kheo ni nào thuyết pháp quá năm, sáu câu với người phái nam, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp có một người nữ sáng suốt cùng ở đó.

10. Như có tỳ-kheo ni nào tự tay đào xới đất, hoặc sai bảo người khác làm, phạm vào tội ba-dật-đề.

11. Như có tỳ-kheo ni nào phá hại mầm giống cho đến các loại cây cỏ đang còn sống, phạm vào tội ba-dật-đề.

12. Như có tỳ-kheo ni nào cố ý nói ra những lời quanh co, khúc chiết, không đúng với sự việc, gây phiền toái cho người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

13. Như có tỳ-kheo ni nào chê bai, nhiếc mắng vị làm tri sự, phạm vào tội ba-dật-đề.

14. Như có tỳ-kheo ni nào tự mình lấy, hoặc nhờ người khác lấy các vật dụng của chúng tăng như ghế, giường, ngọa cụ... mang ra chỗ trống để dùng. Khi dùng xong, trước khi rời đi không dẹp cất lại chỗ cũ, cũng không nhờ người khác dẹp cất lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

15. Như có tỳ-kheo ni nào ở trong tăng phòng, tự mình lấy, hoặc nhờ người khác lấy các vật dụng của chúng tăng như ghế, giường, ngọa cụ mà dùng. Khi dùng xong, trước khi rời đi không dẹp cất lại chỗ cũ, cũng không nhờ người khác dẹp cất lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

16. Như có tỳ-kheo ni nào, biết chỗ nghỉ của tỳ-kheo ni khác, khi đến sau lại mang ngọa cụ trải ra mà nằm, tự nghĩ rằng: “Nếu bà ấy có chê là chật chội thì cứ việc tránh ta mà đi nơi khác.” Chỉ vậy, không có lý do nào khác, không hợp với oai nghi, phạm vào tội ba-dật-đề.

17. Như có tỳ-kheo ni nào do tức giận tỳ-kheo ni khác, trong lòng không vui, liền xô đuổi hoặc sai khiến người khác xô đuổi tỳ-kheo ni ấy ra khỏi tăng phòng, phạm vào tội ba-dật-đề.

18. Như có tỳ-kheo ni nào ở tầng gác cao, nằm hoặc ngồi trên giường đã bị lỏng chân, phạm vào tội ba-dật-đề.

19. Như có tỳ-kheo ni nào biết là nước có trùng mà tự mình dùng, tưới lên bùn đất, cây cỏ, hoặc sai bảo người khác làm như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

20. Như có tỳ-kheo ni nào làm phòng lớn có cửa song, cửa sổ và các vật trang hoàng, chỉ được lợp mái từ hai đến ba lớp. Nếu quá mức, phạm vào tội ba-dật-đề.

21. Như có tỳ-kheo ni nào đến chỗ thí chủ cúng dường một bữa ăn, không có bệnh chỉ được thọ nhận một bữa. Nếu quá, phạm vào tội ba-dật-đề.

22. Như có tỳ-kheo ni nào thọ thỉnh ăn thành chúng riêng, phạm tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp như khi có bệnh, khi may y, khi nhận cúng y, khi đi đường xa, khi đi tàu thuyền, khi đại chúng tụ họp đông đảo, khi các thầy tu ngoại đạo cúng dường.

23. Như tỳ-kheo ni thọ thỉnh cúng dường ở nhà cư sĩ, được ân cần mờ các thứ bánh hoặc lương khô, nếu muốn có thể nhận đến hai hoặc ba bát mang về chùa phân chia cho các tỳ-kheo ni khác cùng ăn. Như tỳ-kheo ni không có bệnh mà thọ nhận nhiều hơn hai hoặc ba bát, khi về chùa không phân chia cho các tỳ-kheo ni khác cùng ăn, phạm tội ba-dật-đề.

24. Như có tỳ-kheo ni nào ăn phi thời, phạm tội ba-dật-đề.

25. Như có tỳ-kheo ni nào ăn thức ăn chứa trữ từ hôm trước, phạm vào tội ba-dật-đề.

26. Như có tỳ-kheo ni nào, không phải thức ăn hoặc thuốc cúng dường cho mình mà để vào trong miệng, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ ra nước và nhành dương.

27. Như có tỳ-kheo nào trước đã thọ thỉnh cúng dường, sau đó trước hoặc sau giờ thọ thực lại đến nhà khác mà không báo cho tỳ-kheo khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp như có bệnh, hoặc khi nhận cúng y, khi may y.

28. Như có tỳ-kheo ni nào khất thực trong nhà có đồ quý giá, cố ngồi nán lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

29. Như có tỳ-kheo ni nào khất thực trong nhà có đồ quý giá, đến chỗ khuất trong nhà mà ngồi, phạm vào tội ba-dật-đề.

30. Như có tỳ-kheo ni nào ngồi riêng với nam giới ở chỗ trống trải, phạm vào tội ba-dật-đề.

31. Như có tỳ-kheo ni nào bảo tỳ-kheo ni khác cùng đi với mình đến chỗ thôn xóm kia, nói rằng có thể nhận được thức ăn. Đến nơi không cho ăn, lại xô đuổi vị kia rằng: “Bà nên đi đi. Tôi ngồi với bà, nói chuyện với bà không được vui, tôi ngồi một mình sẽ được vui vẻ.” Nói thế không ngoài mục đíchtìm cách xô đuổi vị kia đi nơi khác. Tỳ-kheo ni như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

32. Như có tỳ-kheo ni nào muốn nhận sự cúng dường thuốc men của thí chủ để dùng trong vòng 4 tháng, dù không bệnh cũng được nhận. Nếu nhận quá mức trên, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp có người phát tâm cúng dường thường xuyên, hoặc hết hạn bốn tháng rồi nhận cúng dường lần khác, hoặc thí chủ mang đến chùa phân chia cúng dường cho ni chúng, hoặc thí chủ phát tâm cúng dường suốt đời.

33. Như có tỳ-kheo ni nào đến xem những chỗ quân trận, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợpnhân duyên thích hợp.

34. Như có tỳ-kheo ni nào có nhân duyên phải đến chỗ quân trận, có thể ở lại hai hoặc ba đêm. Nếu quá, phạm vào tội ba-dật-đề.

35. Như có tỳ-kheo ni nào, có nhân duyên phải đến chỗ quân trận, phải ở lại đó từ hai đến ba đêm, lại đi xem quân lính tập dượt, dàn trận, đánh nhau, phạm vào tội ba-dật-đề.

36. Như có tỳ-kheo ni nào uống rượu, phạm vào tội ba-dật-đề.

37. Như có tỳ-kheo ni nào bơi lội đùa nghịch trong nước, phạm tội ba-dật-đề.

38. Như tỳ-kheo ni dùng ngón tay mà chọc lẫn vào người nhau, phạm vào tội ba-dật-đề.

39. Như có tỳ-kheo ni nào không nghe lời can ngăn của người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

40. Như có tỳ-kheo ni nào làm cho tỳ-kheo ni khác lo lắng, sợ sệt, phạm vào tội ba-dật-đề.

41. Như có tỳ-kheo ni nào trong nửa tháng tắm quá một lần, phạm tội ba-dật-đề. Trừ các trường hợp như khi trời nóng nực, khi thân thể có bệnh, khi phải làm việc nhiều, khi mưa gió, khi đi đường xa.

42. Như có tỳ-kheo ni nào không có bệnh nhưng vì muốn hơ ấm, ở chỗ đất trống đốt lửa, hoặc sai khiến người khác đốt, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợpnhân duyên thích hợp.

43. Như có tỳ-kheo ni nào mang giấu y bát, tọa cụ, ống đựng kim của tỳ-kheo ni khác, dù chỉ để đùa chơi, phạm vào tội ba-dật-đề.

44. Như có tỳ-kheo ni nào đã đem y thí cho người khác, về sau không nói với người ấy mà tự ý lấy dùng, phạm vào tội ba-dật-đề.

45. Như có tỳ-kheo ni nào được y mới, phải đem nhuộm cho xấu đi rồi mới dùng. Nếu không nhuộm xấu đi mà mặc vào, phạm tội ba-dật-đề.

46. Như có tỳ-kheo ni nào cố ý giết chết các loài động vật, phạm vào tội ba-dật-đề.

47. Như có tỳ-kheo ni nào biết là trong nước có trùng mà dùng để uống, phạm vào tội ba-dật-đề.

48. Như có tỳ-kheo ni nào cố ý tìm cách gây sự phiền muộn, buồn bực cho tỳ-kheo ni khác, khiến chẳng lúc nào được vui vẻ, phạm vào tội ba-dật-đề.

49. Như có tỳ-kheo ni nào biết tỳ-kheo ni khác phạm tội thô mà che giấu, phạm vào tội ba-dật-đề.

50. Như có tỳ-kheo ni nào, biết những chuyện tranh chấp đã theo đúng pháp sám hối trừ diệt rồi, sau lại phát khởi lên, phạm vào tội ba-dật-đề.

51. Như có tỳ-kheo ni nào đã biết là kẻ gian mà cùng đi chung đường, dù chỉ là trong phạm vi một xóm làng, phạm vào tội ba-dật-đề.

52. Như có tỳ-kheo ni nào nói rằng: “Phật có nói là việc dâm dục không ngăn ngại gì cho đạo pháp.” Có tỳ-kheo ni khác can ngăn rằng: “Đại tỷ, chớ nói như thế. Chớ nên hủy báng đức Thế Tôn, như vậy là không tốt. Thế Tôn không hề nói ra lời như vậy. Ngài đã dùng vô số phương tiện để chỉ ra rằng việc dâm dục là ngăn ngại cho đạo pháp.”

can ngăn như thế, tỳ-kheo ni kia vẫn nhất mực không bỏ. Nên khuyên can cho đến ba lần. Nếu đến lần thứ ba mà chịu nghe thì tốt, bằng như vẫn không nghe, phạm vào tội ba-dật-đề.

53. Như có tỳ-kheo ni nào, biết tỳ-kheo ni khác đã nói lời như trên, chưa sám hối theo như pháp, chưa bỏ chỗ tà kiến ấy, mà vẫn cung cấp cho những thứ cần dùng, lại cùng làm phép yết-ma, cùng ngủ nghỉ chung nhau, nói chuyện qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

54. Như tỳ-kheo ni nào, biết sa-di ni nói ra lời này: “Phật có nói việc dâm dục không ngăn ngại gì cho đạo pháp.” Tỳ-kheo ni ấy liền can ngăn rằng: “Ngươi chớ nên hủy báng đức Thế Tôn, như vậy không tốt. Này sa-di ni, đức Thế Tôn không hề nói ra lời như vậy. Ngài đã dùng vô số phương tiện để chỉ ra rằng việc dâm dục là ngăn ngại cho đạo pháp.”

can ngăn như thế, sa-di ni kia vẫn nhất mực không bỏ. Tỳ-kheo ni ấy nên khuyên can, quở trách cho đến ba lần, buộc phải từ bỏ lời sai trái ấy. Nếu đến lần thứ ba mà chịu nghe thì tốt, bằng như vẫn không nghe, tỳ-kheo ni ấy nên nói như thế này: “Ngươi từ nay về sau không được gọi Phật là đức Thế Tôn của ngươi nữa, không được đi theo các tỳ-kheo ni, cũng không được cùng chư tỳ-kheo ni ngủ chung hai đến ba đêm như các sa-di ni khác. Ngươi phải đi khỏi đây, không được ở lại nữa.”

Như có tỳ-kheo ni nào biết sa-di ni đã bị đuổi đi như vậy mà còn mang về nuôi dưỡng, cùng sa-di ni ấy ngủ nghỉ chung nhau, nói chuyện qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề. 

55. Như tỳ-kheo ni nào làm điều sai trái, có tỳ-kheo ni khác theo đúng pháp can ngăn, liền đáp rằng: “Nay tôi không học giới này. Phải đợi chất vấn các vị tỳ-kheo ni khác có trí tuệ, giữ giới.” Tỳ-kheo ni ấy phạm vào tội ba-dật-đề. Như nếu thật sự vì muốn hiểu, muốn học, thì có thể chất vấn.

56. Như có tỳ-kheo ni nào, vào lúc thuyết giới nói rằng: “Đại tỷ, cần chi phải nói những giới vụn vặt ấy, chỉ làm cho người ta phải buồn phiền, hổ thẹn mà thôi.” Như vậy là nghi ngờ, khinh chê giới luật, phạm vào tội ba-dật-đề.

57. Như có tỳ-kheo ni nào, vào lúc thuyết giới nói rằng: “Tôi đến hôm nay mới biết trong giới pháp có điều này, từ trong Giới kinh rút ra, nửa tháng tụng đọc một lần.” Nhưng các tỳ-kheo ni khác thật biết rằng tỳ-kheo ni ấy ít nhất cũng đã hai hoặc ba lần ngồi nghe thuyết giới, huống là rất nhiều lần.

Tỳ-kheo ni ấy không phải là không biết giới. Như đã phạm tội gì thì cứ theo đúng pháp mà trị. Ngoài ra, phải ghép thêm tội không biết nữa, bảo cho biết rằng: “Đại tỷ, cô thật không được sự ích lợi, không có chỗ khéo được. Khi thuyết giới cô đã không chú tâm vào, không một lòng lắng tai nghe pháp.” Vì không biết như thế, phạm vào tội ba-dật-đề.

58. Như có tỳ-kheo ni nào cùng ni chúng dự phép yết-ma rồi, sau lại nói rằng: “Các tỳ-kheo ni vì chỗ thân thiết mà lấy vật của ni chúng đem cho người kia.” Như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

59. Như có tỳ-kheo ni nào, khi ni chúng bàn việc chưa xong, tự ý bỏ đi không nói là mình thuận theo ý chung, phạm vào tội ba-dật-đề.

60. Như có tỳ-kheo ni nào, đã nói là mình thuận theo ý chung, nhưng về sau lại có ý hối tiếc, phạm vào tội ba-dật-đề.

61. Như có tỳ-kheo ni nào, biết các tỳ-kheo ni khác đang bất hòa nhau, nghe chuyện bên này đến nói với bên kia, phạm vào tội ba-dật-đề.

62. Như có tỳ-kheo ni nào, do nóng giận không vui mà đánh tỳ-kheo ni khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

63. Như có tỳ-kheo ni nào, do nóng giận không vui mà dùng tay vả, tát tỳ-kheo ni khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

64. Như có tỳ-kheo ni nào, do nóng giận mà vô cớ vu cáo tỳ-kheo ni khác là phạm tội tăng-già bà-thi-sa, phạm vào tội ba-dật-đề.

65. Như có tỳ-kheo ni nào đi vào chốn cung môn lúc vua chưa ra triều, chưa kịp cất giấu của báu, bước qua ngạch cửa phạm vào tội ba-dật-đề.

66. Như có tỳ-kheo ni nào tự tay cầm nắm các món đồ quý hoặc trang sức giá trị, hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác cầm giữ, phạm vào tội ba-dật-đề. Trừ trường hợp trong khuôn viên chùa hoặc nơi mình đang tạm nghỉ.

Nếu trong khuôn viên chùa hoặc nơi đang tạm nghỉ, tỳ-kheo ni có tự tay cầm nắm các món đồ quý hoặc chỉ bảo, sai khiến người khác cầm giữ, nên suy nghĩ như thế này: “Nếu chủ nhân biết mà đến sẽ giao cho.” Thật chỉ vậy chứ không có ý gì khác.

67. Như có tỳ-kheo ni nào đi vào thôn xóm trái giờ mà không báo cho các tỳ-kheo ni khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề.

68. Như có tỳ-kheo ni nào làm giường nằm cao quá tám lóng tay của Phật, không tính từ chỗ vào mộng trở lên, làm xong phạm vào tội ba-dật-đề.

69. Như có tỳ-kheo ni nào dùng loại bông mềm nhuyễn để dồn trải lên giường, nệm nằm, nệm ngồi, phạm vào tội ba-dật-đề.

70. Như có tỳ-kheo ni nào ăn các loại gia vị hành, tỏi, phạm vào tội ba-dật-đề.

71. Như có tỳ-kheo ni nào cạo bỏ ba chỗ lông trên thân thể, phạm vào tội ba-dật-đề.

72. Như có tỳ-kheo ni nào, dùng nước rửa bên trong âm hộ, có thể dùng hai ngón tay để đưa vào chừng một lóng tay mà làm sạch. Như sâu hơn một lóng tay, phạm vào tội ba-dật-đề.

73. Như có tỳ-kheo ni nào, dùng chất dẻo tạo thành hình dạng giống như nam căn để đưa vào trong âm hộ, phạm vào tội ba-dật-đề.

74. Như có hai tỳ-kheo ni cùng vỗ về, mơn trớn nữ căn cho nhau, phạm vào tội ba-dật-đề.

75. Như có tỳ-kheo ni nào, đến giờ ăn mang nước uống cho thầy tỳ-kheo không có bệnh, lại dùng quạt đứng trước mặt mà quạt, phạm vào tội ba-dật-đề.

76. Như có tỳ-kheo ni nào, đi khất thực nhận các thứ ngũ cốc chưa nấu chín, phạm vào tội ba-dật-đề.

77. Như có tỳ-kheo ni nào, đại tiểu tiện lên trên cỏ xanh, phạm vào tội ba-dật-đề.

78. Như có tỳ-kheo ni nào, lúc ban đêm đại tiểu tiện trong vật chứa, đến sáng mang đổ không đúng chỗ, phạm vào tội ba-dật-đề.

79. Như có tỳ-kheo ni nào, đi xem các trò ca múa, hát nhạc, phạm vào tội ba-dật-đề.

80. Như có tỳ-kheo ni nào, khi vào trong thôn xóm, cùng với nam giới đứng chung nơi chỗ khuất vắng nói chuyện qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

81. Như có tỳ-kheo ni nào, cùng với nam giới đi vào chỗ khuất vắng, phạm vào tội ba-dật-đề.

82. Như có tỳ-kheo ni nào, khi vào trong thôn xóm đến chỗ ngõ hẻm, kiếm cớ bảo người cùng đi tránh ra nơi khác, rồi một mình cùng với nam giới ở chỗ khuất vắng đứng nói chuyện thì thầm qua lại, phạm vào tội ba-dật-đề.

83. Như có tỳ-kheo ni nào vào ngồi trong nhà cư sĩ, không nói với chủ nhà mà lặng lẽ bỏ đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

84. Như có tỳ-kheo ni nào vào nhà cư sĩ, không nói với chủ nhà mà tự đến ngồi trên giường ghế, phạm vào tội ba-dật-đề.

85. Như có tỳ-kheo ni nào vào nhà cư sĩ, không nói với chủ nhà mà tự dọn chỗ ngủ nghỉ, phạm vào tội ba-dật-đề.

86. Như có tỳ-kheo ni cùng với một người nam đi vào trong nhà tối tăm không đèn, phạm vào tội ba-dật-đề.

87. Như có tỳ-kheo ni nào, nghe không rõ, không suy nghĩ kỹ mà đi nói lại với người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

88. Như có tỳ-kheo ni nào, chỉ vì một chuyện nhỏ mà dùng lời thề thốt với người khác rằng: “Như ta có làm chuyện ấy, sẽ đọa vào ba đường ác, chẳng gặp được Phật pháp. Như người có làm chuyện ấy, cũng sẽ đọa vào ba đường ác, chẳng gặp được Phật pháp.” Tỳ-kheo ni như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

89. Như có tỳ-kheo ni nào cùng người khác tranh cãi chuyện không tốt, không khéo nhớ giữ các pháp tránh sự, đấm ngực kêu la to tiếng. Tỳ-kheo ni như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

90. Như có tỳ-kheo ni nào cùng với người khác nằm chung trên một giường, trừ khi do có bệnh, phạm vào tội ba-dật-đề.

91. Như có tỳ-kheo ni nào cùng với người khác cùng nằm chung một tấm nệm, đắp chung một tấm mền, trừ trường hợp đặc biệt, phạm vào tội ba-dật-đề.

92. Như có tỳ-kheo ni nào, biết người ở trước, mình liền từ sau đến; biết người ở sau đến, liền đứng ngăn ở trước, cố ý muốn làm cho người phải phiền lòng, bực dọc, đứng trước mặttụng kinh, hỏi nghĩa, dạy bảo, phạm vào tội ba-dật-đề.

93. Như có tỳ-kheo ni nào cùng sống chung với tỳ-kheo ni bị bệnh mà không chăm sóc, phạm vào tội ba-dật-đề.

94. Như có tỳ-kheo ni nào, vào đầu mùa an cư đồng ý cho tỳ-kheo ni khác đặt giường ngủ trong phòng, sau đó vì có chuyện giận tức liền xô đuổi ra khỏi phòng, phạm vào tội ba-dật-đề.

95. Như có tỳ-kheo ni nào trong cả ba mùa xuân, hạ và đông đi khắp nơi trong dân gian, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ trường hợpnhân duyên gì khác.

96. Như có tỳ-kheo ni nào, thọ thỉnh sự cúng dường trong ba tháng an cư của cư sĩ, khi hết mùa an cư mà chẳng chịu rời đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

97. Như có tỳ-kheo ni nào, đi du hành trong chốn nhân gian, nơi vùng biên giới đáng ngờ là có nhiều nguy hiểm, phạm vào tội ba-dật-đề.

98. Như có tỳ-kheo ni nào, ở những vùng nghi ngờ có sự nguy hiểm đáng sợ trong xứ mà du hành trong nhân gian, phạm vào tội ba-dật-đề.

99. Như có tỳ-kheo ni nào, thân cận với cư sĩ hoặc con cái của cư sĩ, cùng ở chung một chỗ làm những việc nghịch. Các tỳ-kheo ni khác can ngăn rằng: “Đại tỷ không nên thân cận với cư sĩ hoặc con cái của cư sĩ, cùng ở chung một chỗ làm những việc nghịch. Đại tỷ nên sống riêng biệt, có như vậy mới được thêm chỗ lợi lạc, an ổn trong Phật pháp.

Các tỳ-kheo ni can ngăn như vậy, nhưng tỳ-kheo ni kia vẫn kiên trì không từ bỏ. Nên can ngăn cho đến ba lần. Như chịu bỏ thì tốt, nếu không bỏ, phạm vào tội ba-dật-đề.

100. Như có tỳ-kheo ni nào đến xem những chốn đền đài, cung điện có chạm trổ, trang sức, những nơi vườn tược, ao hồ của vua chúa... phạm vào tội ba-dật-đề.

101. Như có tỳ-kheo ni nào, lõa hình tắm dưới nước sông, nước suối, nước kinh rạch, nước ao hồ, nước đang chảy... không có gì che đậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

102. Như có tỳ-kheo ni nào may áo để che khi tắm, nên may vừa đủ rộng. Bề dài sáu gang tay Phật, bề ngang hai gang rưỡi. Nếu như rộng hơn, phạm vào tội ba-dật-đề.

103. Như có tỳ-kheo ni nào may y tăng-già-lê kéo dài quá năm ngày, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ trường hợp chờ xin cho đủ vải, khi xả y công đức, hoặc khi có những trở ngại khó khăn.

104. Như có tỳ-kheo ni nào, quá năm ngày không nhìn đến y tăng-già-lê, phạm vào tội ba-dật-đề.

105. Như có tỳ-kheo ni nào ngăn cản thí chủ cúng dường y cho chúng tăng, phạm vào tội ba-dật-đề.

106. Như có tỳ-kheo ni nào, không hỏi trước mà lấy y của một vị khác dùng, phạm vào tội ba-dật-đề.

107. Như có tỳ-kheo ni nào lấy y của sa-môn mà thí cho người cư sĩ, người ngoại đạo, phạm vào tội ba-dật-đề.

108. Như có tỳ-kheo ni nào nghĩ rằng, chúng tăng theo đúng pháp phân chia y, liền muốn trì hoãn lại, vì sợ đệ tử mình không nhận được y, phạm vào tội ba-dật-đề.

109. Như có tỳ-kheo ni nào có ý nghĩ muốn làm cho chúng tăng không xả được y ca-hy-na, để về sau sẽ xả, vì muốn kéo dài năm sự buông thả. Tỳ-kheo ni như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

110. Như có tỳ-kheo ni nào có ý nghĩ muốn ngăn chúng tỳ-kheo ni không cho xả y ca-hy-na, vì muốn kéo dài năm sự buông thả. Tỳ-kheo ni như vậy phạm vào tội ba-dật-đề.

111. Như tỳ-kheo ni nào, có tỳ-kheo ni khác đến nói rằng: “Xin vì chúng tôi trừ bỏ đi sự tranh cãi này.” Được yêu cầu như vậy nhưng không cố gắng giúp trừ diệt sự tranh cãi, phạm vào tội ba-dật-đề.

112. Như có tỳ-kheo ni nào tự tay đưa thức ăn thí cho người cư sĩ hoặc ngoại đạo, phạm vào tội ba-dật-đề.

113. Như có tỳ-kheo ni nào làm người đưa tin hoặc thay mặt cho cư sĩ, phạm vào tội ba-dật-đề.

114. Như có tỳ-kheo ni nào tự tay kéo sợi, quay tơ, phạm vào tội ba-dật-đề.

115. Như có tỳ-kheo ni nào vào nhà cư sĩ, lên ngồi hoặc nằm trên giường ghế của họ, phạm vào tội ba-dật-đề.

116. Như có tỳ-kheo ni nào vào nhà cư sĩ, bảo chủ nhân dọn chỗ cho ngủ qua đêm, đến sáng chẳng từ biệt chủ mà bỏ đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

117. Như có tỳ-kheo ni nào đọc tụng, làm theo những chú thuật của thế tục, phạm vào tội ba-dật-đề.

118. Như có tỳ-kheo ni nào dạy người khác đọc tụng, làm theo những chú thuật của thế tục, phạm vào tội ba-dật-đề.

119. Như có tỳ-kheo ni nào biết người nữ đang mang thai mà nhận cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

120. Như có tỳ-kheo ni nào biết người nữ đang cho con bú mà nhận cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

121. Như có tỳ-kheo ni nào biết người nữ chưa đủ hai mươi tuổi mà nhận cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

122. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tám tuổi chưa chồng xuất gia làm sa-di ni, không dạy cho học giới hai năm, đến tròn hai mươi tuổi liền cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

123. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tám tuổi chưa chồng xuất gia làm sa-di ni, dạy cho học giới hai năm, nhưng không cho thọ sáu pháp, đợi tròn hai mươi tuổi liền cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

124. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tám tuổi chưa chồng xuất gia làm sa-di ni, dạy cho học giới hai năm, đã cho thọ sáu pháp, đến tròn hai mươi tuổi, chúng tăng không thuận mà vẫn cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

125. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tuổi đã từng có chồng, phải dạy cho học giới hai năm, đủ mười hai tuổi có thể cho thọ cụ túc giới. Như chưa đủ mười hai tuổi cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

126. Như có tỳ-kheo ni nào nhận người nữ mười tuổi đã từng có chồng, đã dạy cho học giới hai năm, đủ mười hai tuổi, nhưng không bạch với chúng tăng mà cho thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

127. Như có tỳ-kheo ni nào biết người dâm nữ mà nhận cho xuất gia thọ cụ túc giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

128. Như có tỳ-kheo ni nào độ cho nhiều đệ tử xuất gia thọ cụ túc giới, nhưng không dạy cho học giới hai năm, cũng không dùng hai pháp nhiếp thủ để dạy dỗ, phạm vào tội ba-dật-đề.

129. Như có tỳ-kheo ni nào xuất gia thọ giới cụ túc mà không theo vị hòa thượng ni ít nhất là hai năm, phạm vào tội ba-dật-đề.

130. Như có tỳ-kheo ni nào, chúng tăng không thuận cho mà vẫn truyền giới cụ túc cho người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

131. Như có tỳ-kheo ni nào, xuất gia chưa đủ mười hai tuổi hạ mà trao giới cụ túc cho người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

132. Như có tỳ-kheo ni nào, xuất gia đủ mười hai tuổi hạ, nhưng chúng tăng không thuận cho mà vẫn truyền giới cụ túc cho người khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

133. Như có tỳ-kheo ni nào, chúng tăng không thuận cho truyền giới cụ túc, liền nói rằng: “Chúng tăng có yêu, có giận, có sợ, có ngu si, như muốn cho ai thọ giới thì tùy tiện mà cho.” Tỳ-kheo ni như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

134. Như có tỳ-kheo ni nào, truyền giới cụ túc cho người mà cha, mẹ hoặc chồng không cho phép xuất gia, phạm vào tội ba-dật-đề.

135. Như có tỳ-kheo ni nào, biết người nữ đang có chuyện yêu đương, buồn khổ, hờn giận với nam giới, lại nhận cho xuất gia thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

136. Như có tỳ-kheo ni nào nói với thức-xoa-ma-na ni rằng: “Cô nên bỏ điều này, học điều này... ta sẽ truyền giới cụ túc cho cô.” Như không tạo phương tiện để truyền giới cụ túc cho người ấy, phạm vào tội ba-dật-đề.

137. Như có tỳ-kheo ni nào nói với thức-xoa-ma-na ni rằng: “Cô mang y trao cho ta, ta sẽ truyền giới cụ túc cho cô.” Như không tạo phương tiện để truyền giới cụ túc cho người ấy, phạm vào tội ba-dật-đề.

138. Như có tỳ-kheo ni, chưa quá một năm mà đã truyền giới cụ túc cho hai người, phạm vào tội ba-dật-đề.

139. Như có tỳ-kheo ni, nhận truyền giới cho người khác rồi, để qua ngày hôm sau mới đưa đến chỗ tỳ-kheo tăng để thọ giới, phạm vào tội ba-dật-đề.

140. Như có tỳ-kheo ni, không có bệnh mà không đến nghe tăng giáo thọ, phạm vào tội ba-dật-đề.

141. Tỳ-kheo ni nửa tháng một lần phải đến chỗ chúng tỳ-kheo tăng thỉnh cầu giáo thọ. Như không làm vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

142. Tỳ-kheo ni, sau ba tháng an cư phải đến chỗ chúng tỳ-kheo tăng để trình bày ba việc: những điều đã thấy, những điều đã nghe và những điều còn nghi. Như không làm vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

143. Như có tỳ-kheo ni nào an cư ở nơi không có chúng tỳ-kheo tăng, phạm vào tội ba-dật-đề.

144. Như có tỳ-kheo ni nào, biết là chỗ tự viện của chư tỳ-kheo tăng, không tác bạch mà tự tiện vào, phạm vào tội ba-dật-đề.

145. Như có tỳ-kheo ni nào nhục mạ tỳ-kheo, phạm vào tội ba-dật-đề.

146. Như có tỳ-kheo ni nào, tánh ưa chuyện tranh chấp không tốt, không khéo nhớ giữ các pháp tránh sự, rồi sau giận dữ không vui, nhục mạ chúng tỳ-kheo ni, phạm vào tội ba-dật-đề.

147. Như có tỳ-kheo ni, thân thể có những ghẻ độc hoặc thương tổn cần mổ xẻ, nhưng không thưa với chúng tỳ-kheo ni hoặc nói cho người khác biết trước khi để y sĩ là nam giới mổ xẻ trị thương cho mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

148. Như có tỳ-kheo ni, đã nhận thỉnh thọ thực rồi, hoặc đã ăn no rồi, sau lại còn ăn thêm các món khác nữa, phạm vào tội ba-dật-đề.

149. Như có tỳ-kheo ni nào sanh lòng ganh tỵ không muốn thí chủ cúng dường tỳ-kheo ni khác, phạm vào tội ba-dật-đề.

150. Như có tỳ-kheo ni, dùng các thứ hương phấn bôi xức lên thân thể, phạm vào tội ba-dật-đề.

151. Như có tỳ-kheo ni, dùng xác dầu mè bôi xức lên thân thể, phạm vào tội ba-dật-đề.

152. Như có tỳ-kheo ni, sai khiến tỳ-kheo ni khác xoa bóp thân thể mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

153. Như có tỳ-kheo ni, sai khiến thức-xoa-ma-na ni xoa bóp thân thể mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

154. Như có tỳ-kheo ni, sai khiến sa-di ni xoa bóp thân thể mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

155. Như có tỳ-kheo ni, sai khiến phụ nữ thế tục xoa bóp thân thể mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

156. Như có tỳ-kheo ni mặc váy lót, phạm vào tội ba-dật-đề.

157. Như có tỳ-kheo ni cất chứa những thứ đồ trang sức của phụ nữ thế tục, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ khi do có nhân duyên.

158. Như có tỳ-kheo ni mang dép da và cầm dù che mà đi, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ khi do có nhân duyên.

159. Như có tỳ-kheo ni, không có bệnh mà đi xe, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ khi do có nhân duyên.

160. Như có tỳ-kheo ni đi vào chỗ thôn xóm mà không mặc y tăng-kỳ-chi, phạm vào tội ba-dật-đề.

161. Như có tỳ-kheo ni, trước đó không có sự mời thỉnh, khi trời chiều gần tối đi đến nhà người thế tục, phạm vào tội ba-dật-đề.

162. Như có tỳ-kheo ni, khi trời chiều gần tối mở cổng chùa đi ra mà không báo cho các tỳ-kheo ni khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề.

163. Như có tỳ-kheo ni, khi mặt trời đã lặn, mở cổng chùa đi ra mà không báo cho các tỳ-kheo ni khác biết, phạm vào tội ba-dật-đề.

164. Như có tỳ-kheo ni trước sau đều không dự ba tháng an cư, phạm vào tội ba-dật-đề.

165. Như có tỳ-kheo ni biết người nữ mang bệnh, các đường đại tiểu tiện thường rỉ chảy, lại sanh nhiều đờm dãi ô uế, vẫn nhận cho thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

166. Như có tỳ-kheo ni biết người thuộc hạng chẳng phải nam chẳng phải nữ, vẫn nhận cho thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

167. Như có tỳ-kheo ni biết người dị tật hai đường đại tiểu tiện nhập làm một, vẫn nhận cho thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

168. Như có tỳ-kheo ni biết người nữ mang bệnh nan y hoặc đang mắc nợ chưa trả hết, vẫn nhận cho thọ giới cụ túc, phạm vào tội ba-dật-đề.

169. Như có tỳ-kheo ni học lấy các môn kỹ thuật của thế tục để lấy đó làm kế sinh nhai, phạm vào tội ba-dật-đề.

170. Như có tỳ-kheo ni dạy các môn kỹ thuật của thế tục cho hàng cư sĩ, phạm vào tội ba-dật-đề.

171. Như có tỳ-kheo ni bị chúng tăng trục xuất mà không chịu đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

172. Như có tỳ-kheo ni thưa hỏi nghĩa lý với tỳ-kheo tăng mà không xin phép trước, phạm vào tội ba-dật-đề.

173. Như có tỳ-kheo ni biết người ở trước mình, liền từ sau đến, biết người ở sau đến, liền đứng ngăn ở trước, cố ý muốn làm cho người phải phiền lòng, bực dọc, ở trước mặtkinh hành, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm. Tỳ-kheo ni như vậy, phạm vào tội ba-dật-đề.

174. Như có tỳ-kheo ni biết là có tỳ-kheo tăng trong chốn tự viện mà xây tháp ở đó, phạm vào tội ba-dật-đề.

175. Như có tỳ-kheo ni gặp vị tỳ-kheo tăng mới thọ giới, phải lập tức đứng dậy nghinh đón, cung kính lễ bái, thăm hỏi, mời ngồi. Nếu không làm vậy, phạm vào tội ba-dật-đề, trừ khi có nhân duyên.

176. Như có tỳ-kheo ni vì muốn làm đẹp mà uốn éo thân hình trong khi đi, phạm vào tội ba-dật-đề.

177. Như có tỳ-kheo ni dùng các món trang sức, hương phấn của phụ nữ trên thân mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

178. Như có tỳ-kheo ni sai khiến phụ nữ ngoại đạo dùng các món hương thơm thoa lên thân cho mình, phạm vào tội ba-dật-đề.

_ Kính bạch chư đại tỷ. Tôi đã thuyết xong một trăm bảy mươi tám pháp ba-dật-đề, xin hỏi chư đại tỷ, trong ni chúng đây có được thanh tịnh hay chăng?

Người thuyết giới lập lại câu hỏi này ba lần. Nếu có ai nhớ ra mình đã phạm vào các giới này thì phải tự nhận. Nếu không thì tất cả đều yên lặng.

_ Kính bạch chư đại tỷ, vì các vị đều lặng yên, nên xem như trong ni chúng đây hết thảy đều thanh tịnh. Việc này xin được hiểu như vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19739)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23993)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41255)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19727)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24036)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21758)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23333)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27526)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26594)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29371)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33245)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20225)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25806)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20950)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31361)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38630)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21469)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44305)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29870)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42267)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22167)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45829)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32161)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23993)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24436)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29327)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33952)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27716)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32191)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21103)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28882)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21621)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28120)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22097)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21462)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19544)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19498)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19852)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19285)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29238)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20647)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28332)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23678)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33237)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31883)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21432)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39691)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21593)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19415)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26436)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24860)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21777)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22416)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29180)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22586)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20499)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23567)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21277)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35386)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24582)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant