Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Quán chúng sinh phẩm - Đệ thất

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7242)
8. Quán chúng sinh phẩm - Đệ thất

KINH DUY-MA-CẬT (Hán-Việt)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH

QUYỂN TRUNG

Quán chúng sinh phẩm - Đệ thất

觀眾生品
第 七


爾時文殊師利問維摩詰言。菩薩云何觀於衆生。
維摩詰言。譬如幻師見所幻人。菩薩觀衆生為若此。
如智者見水中月。如鏡中見其面像。如熱時燄。如呼聲響。如空中雲。如水聚沫。如水上泡。如芭蕉堅。如電久住。如第五大。如第六陰。如第七情。如十三入。如十九界。菩薩觀衆生為若此。
如無色界色。如焦穀牙。如須陀洹身見。如阿那含入胎。如阿羅漢三毒。如得忍菩薩貪恚毀禁。如佛煩惱習。如盲者見色。如入滅盡定出入息。如空中鳥跡。如石女兒。如化人煩惱。如夢所見已寤。如滅度者受身。如無煙之火。菩薩觀衆生為若此。
文殊師利言。若菩薩作是觀者。云何行慈。
維摩詰言。菩薩作是觀已自念。我當為衆生說如斯法。是即真實慈也。行寂滅慈無所生故。行不熱慈無煩惱故。行等之慈等三世故。行無諍慈無所起故。行不二慈內 外不合故。行不壞慈畢竟盡故。行堅固慈心無毀故。行清淨慈諸法性淨故。行無邊慈如虛空故。行阿羅漢慈破結賊故。行菩薩慈安衆生故。行如來慈得如相故。行佛 之慈覺衆生故。行自然慈無因得故。
行菩提慈等一味故。行無等慈斷諸愛故。行大悲慈導以大乘故。行無厭慈觀空無我故。行法施慈無遺惜故。行持戒慈化毀禁故。行忍辱慈護彼我故。行精進慈荷負衆 生故。行禪定慈不受味故。行智慧慈無不知時故。行方便慈一切示現故。行無隱慈直心清淨故。行深心慈無雜行故。行無誑慈不虛假故。行安樂慈令得佛樂故。菩薩 之慈為若此也。
文殊師利又問。何謂為悲。
答曰。菩薩所作功德皆與一切衆生共之。
何謂為喜。
答曰。有所饒益歡喜無悔。
何謂為捨。
答曰。所作福祐無所希望。
文殊師利又問。生死有畏。菩薩當何所依。
維摩詰言。菩薩於生死畏中。當依如來功德之力。
文殊師利又問。菩薩欲依如來功德之力。當於何住。
答曰。菩薩欲依如來功德力者。當住度脫一切衆生。
又問。欲度衆生。當何所除。
答曰。欲度衆生除其煩惱。
又問。欲除煩惱。當何所行。
答曰。當行正念。
又問。云何行於正念。
答曰。當行不生不滅。
又問。何法不生。何法不滅。
答曰。不善不生。善法不滅。
又問。善不善孰為本。
答曰。身為本。
又問。身孰為本。
答曰。欲貪為本。
又問。欲貪孰為本。
答曰。虛妄分別為本。
又問。虛妄分別孰為本。
答曰。顛倒想為本。
又問。顛倒想孰為本。
答曰。無住為本。
又問。無住孰為本。
答曰。無住則無本。
文殊師利。從無住本立一切法。
時維摩詰室有一天女。見諸天人聞所說法便現其身。即以天華散諸菩薩大弟子上。華至諸菩薩即皆墮落。至大弟子便著不墮。一切弟子神力去華不能令去。
爾時天女問舍利弗。何故去華。
答曰。此華不如法。是以去之。
天曰。勿謂此華為不如法。所以者何。是華無所分別。仁者自生分別想耳。若於佛法出家有所分別為不如法。若無所分別是則如法。觀諸菩薩華不著者已斷一切分別 想故。譬如人畏時非人得其便。如是弟子畏生死故。色聲香味觸得其便也。已離畏者一切五欲無能為也。結習未盡華著身耳。結習盡者華不著也。
舍利弗言。天止此室其已久如。
答曰。我止此室如耆年解脫。
舍利弗言。止此久耶。
天曰。耆年解脫亦何如久。
舍利弗默然不答。
天曰。如何耆舊大智而默。
答曰。解脫者無所言說。故吾於是不知所云。
天曰。言說文字皆解脫相。所以者何。解脫者不內不外不在兩間。文字亦不內不外不在兩間。
是故舍利弗。無離文字說解脫也。所以者何。一切諸法是解脫相。
舍利弗言。不復以離婬怒癡為解脫乎。
天曰。佛為增上慢人說離婬怒癡為解脫耳。若無增上慢者。佛說婬怒癡性即是解脫。
舍利弗言。善哉善哉。天女。汝何所得。以何為證。辯乃如是。
天曰。我無得無證故辯如是。所以者何。若有得有證者即於佛法為增上慢。
舍利弗問天。汝於三乘為何志求。
天曰。以聲聞法化衆生故我為聲聞。以因緣法化衆生故我為辟支佛。以大悲法化衆生故我為大乘。
舍利弗。如人入瞻蔔林唯嗅瞻蔔不嗅餘香。如是若入此室。但聞佛功德之香。不樂聞聲聞辟支佛功德香也。
舍利弗。其有釋梵四天王諸天龍鬼神等入此室者。聞斯上人講說正法。皆樂佛功德之香發心而出。
舍利弗。吾止此室十有二年。初不聞說聲聞辟支佛法。但聞菩薩大慈大悲不可思議諸佛之法。
舍利弗。此室常現八未曾有難得之法。
何等為八。此室常以金色光照晝夜無異。不以日月所照為明。是為一未曾有難得之法。
此室入者不為諸垢之所惱也。是為二未曾有難得之法。
此室常有釋梵四天王他方菩薩來會不絕。是為三未曾有難得之法。
此室常說六波羅密不退轉法。是為四未曾有難得之法。
此室常作天人第一之樂。絃出無量法化之聲。是為五未曾有難得之法。
此室有四大藏衆寶積滿。賙窮濟乏求得無盡。是為六未曾有難得之法。
此室釋迦牟尼佛。阿彌陀佛。阿閦佛。寶德。寶燄。寶月。寶嚴。難勝。師子響。一切利成。如是等十方無量諸佛。是上人念時。即皆為來廣說諸佛秘要法藏。說已還去。是為七未曾有難得之法。
此室一切諸天嚴飾宮殿諸佛淨土皆於中現。是為八未曾有難得之法。
舍利弗。此室常現八未曾有難得之法。誰有見斯不思議事而復樂於聲聞法乎。
舍利弗言。汝何以不轉女身。
天曰。我從十二年來。求女人相了不可得。當何所轉。譬如幻師化作幻女。若有人問。何以不轉女身。是人為正問不。
舍利弗言。不也。幻無定相當何所轉。
天曰。一切諸法亦復如是。無有定相。云何乃問不轉女身。
即時天女以神通力變舍利弗令如天女。天自化身如舍利弗。而問言。何以不轉女身。
舍利弗以天女像而答言。我今不知何轉而變為女身。
天曰。舍利弗。若能轉此女身。則一切女人亦當能轉。如舍利弗非女而現女身。一切女人亦復如是。雖現女身而非女也。是故佛說。一切諸法非男非女。
即時天女還攝神力。舍利弗身還復如故。
天問舍利弗。女身色相今何所在。
舍利弗言。女身色相無在無不在。
天曰。一切諸法亦復如是。無在無不在。夫無在無不在者。佛所說也。
舍利弗問天。汝於此沒當生何所。
天曰。佛化所生吾如彼生。
曰。佛化所生非沒生也。
天曰。衆生猶然無沒生也。
舍利弗問天。汝久如當得阿耨多羅三藐三菩提。
天曰。如舍利弗還為凡夫。我乃當成阿耨多羅三藐三菩提。
舍利弗言。我作凡夫無有是處。
天曰。我得阿耨多羅三藐三菩提亦無是處。所以者何。菩提無住處。是故無有得者。
舍利弗言。今諸佛得阿耨多羅三藐三菩提。已得當得。如恒河沙。皆謂何乎。
天曰。皆以世俗文字數故說有三世。非謂菩提有去來今。
天曰。舍利弗。汝得阿羅漢道耶。
曰。無所得故而得。
天曰。諸佛菩薩亦復如是。無所得故而得。
爾時維摩詰。語舍利弗。是天女已曾供養九十二億諸佛。已能遊戲菩薩神通。所願具足得無生忍住不退轉。以本願故隨意能現教化衆生。


Quán Chúng sinh phẩm
Đệ thất

Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi vấn Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát vân hà quán ư chúng sinh?
Duy-ma-cật ngôn: Thí như ảo sư kiến sở ảo nhân. Bồ Tát quán chúng sinh vi nhược thử.
Như trí giả kiến thủy trung nguyệt. Như kính trung kiến kỳ diện tượng. Như nhiệt thời diệm. Như hô thinh hưởng. Như không trung vân. Như thủy tu mạt. Như thủy thượng bào. Như ba tiêu kiên. Như điện cửu trụ. Như đệ ngũ đại. Như đệ lục ấm. Như đệ thất tình. Như thập tam nhập. Như thập cửu giới. Bồ Tát quán chúng sinh vi nhược thử.
Như vô sắc giới sắc. Như tiều cốc nha. Như Tu-đà-hoàn thân kiến. Như A-na-hàm nhập thai. Như A-la-hán tam độc. Như đắc nhẫn Bồ Tát tham nhuế hủy cấm. Như Phật phiền não tập. Như manh giả kiến sắc. Như nhập diệt tận định xuất nhập tức. Như không trung điểu tích. Như thạch nữ nhi. Như hóa nhân phiền não. Như mộng sở kiến dĩ ngộ. Như diệt độ giả thọ thân. Như vô yên chi hỏa. Bồ Tát quán chúng sinh vi nhược thử.
Văn-thù-sư-lợi ngôn: Nhược Bồ Tát tác thị quán giả, vân hà hành từ?
Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát tác thị quán dĩ, tự niệm: Ngã đương vị chúng sinh, thuyết như tư pháp, thị tức chân thật từ dã. Hành tịch diệt từ, vô sở sinh cố. Hành bất nhiệt từ, vô phiền não cố. Hành đẳng chi từ, đẳng tam thế cố. Hành vô tranh từ, vô sở khởi cố. Hành bất nhị từ, nội ngoại bất hiệp cố. Hành bất hoại từ, tất cánh tận cố. Hành kiên cố từ, tâm vô hủy cố. Hành thanh tịnh từ, chư pháp tánh tịnh cố. Hành vô biên từ, như hư không cố. Hành A-la-hán từ, phá kết tặc cố. Hành Bồ Tát từ, an chúng sinh cố. Hành Như Lai từ, đắc như tướng cố. Hành Phật chi từ, giác chúng sinh cố. Hành tự nhiên từ, vô nhân đắc cố.
Hành Bồ-đề từ, đẳng nhất vị cố. Hành vô đẳng từ, đoạn chư ái cố. Hành đại bi từ, đạo dĩ Đại thừa cố. Hành vô yếm từ, quán không, vô ngã cố. Hành pháp thí từ, vô di tích cố. Hành trì giới từ, hóa hủy cấm cố. Hành nhẫn nhục từ, hộ bỉ ngã cố. Hành tinh tấn từ, hà phụ chúng sinh cố. Hành thiền định từ, bất thọ vị cố. Hành trí huệ từ, vô bất tri thời cố. Hành phương tiện từ, nhất thiết thị hiện cố. Hành vô ẩn từ, trực tâm thanh tịnh cố. Hành thâm tâm từ, vô tạp hạnh cố. Hành vô cuống từ, bất hư giả cố. Hành an lạc từ, linh đắc Phật lạc cố. Bồ Tát chi từ vi nhược thử dã.
Văn-thù-sư-lợi hựu vấn: Hà vị vi bi?
Đáp viết: Bồ Tát sở tác công đức, giai dữ nhất thiết chúng sinh cộng chi.
Hà vị vi hỷ?
Đáp viết: Hữu sở nhiêu ích, hoan hỷ vô hối.
Hà vị vi xả?
Đáp viết: Sở tác phước hữu, vô sở hy vọng.
Văn-thù-sư-lợi hựu vấn: Sinh tử hữu úy, Bồ Tát đương hà sở y?
Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát ư sinh tử úy trung, đương y Như Lai công đức chi lực.
Văn-thù-sư-lợi hựu vấn: Bồ Tát dục y Như Lai công đức chi lực, đương ư hà trụ?
Đáp viết: Bồ Tát dục y Như Lai công đức lực giả, đương trụ độ thoát nhất thiết chúng sinh.
Hựu vấn: Dục độ chúng sinh, đương hà sở trừ?
Đáp viết: Dục độ chúng sinh, trừ kỳ phiền não.
Hựu vấn: Dục trừ phiền não, đương hà sở hành?
Đáp viết: Đương hành chánh niệm.
Hựu vấn: Vân hà hành ư Chánh niệm?
Đáp viết: Đương hành bất sinh bất diệt.
Hựu vấn: Hà pháp bất sinh? Hà pháp bất diệt?
Đáp viết: Bất thiện bất sinh. Thiện pháp bất diệt.
Hựu vấn: Thiện bất thiện, thục vi bổn?
Đáp viết: Thân vi bổn.
Hựu vấn: Thân, thục vi bổn?
Đáp viết: Dục tham vi bổn.
Hựu vấn: Dục tham, thục vi bổn?
Đáp viết: Hư vọng phân biệt vi bổn.
Hựu vấn: Hư vọng phân biệt, thục vi bổn?
Đáp viết: Điên đảo tưởng vi bổn.
Hựu vấn: Điên đảo tưởng, thục vi bổn?
Đáp viết: Vô trụ vi bổn.
Hựu vấn: Vô trụ, thục vi bổn?
Đáp viết: Vô trụ tắc vô bổn.
Văn-thù-sư-lợi! Tùng vô trụ bổn lập nhất thiết pháp.
Thời, Duy-ma-cật thất, hữu nhất thiên nữ, kiến chư thiên nhân, văn sở thuyết pháp, tiện hiện kỳ thân. Tức dĩ thiên hoa, tán chư Bồ Tát, đại đệ tử thượng. Hoa chí chư Bồ Tát, tức giai đọa lạc, chí đại đệ tử, tiện trước bất đọa. Nhất thiết đệ tử thần lực khử hoa, bất năng linh khử.
Nhĩ thời, thiên nữ vấn Xá-lỵ-phất: Hà cố khử hoa?
Đáp viết: Thử hoa bất như pháp, thị dĩ khử chi.
Thiên viết: Vật vị thử hoa vi bất như pháp. Sở dĩ giả hà? Thị hoa vô sở phân biệt. Nhân giả tự sinh phân biệt tưởng nhĩ. Nhược ư Phật pháp xuất gia sở hữu phân biệt vi bất như pháp. Nhược vô sở phân biệt, thị tắc như pháp. Quán chư Bồ Tát, hoa bất trước giả, dĩ đoạn nhất thiết phân biệt tưởng cố. Thí như nhân úy thời, phi nhân đắc kỳ tiện. Như thị đệ tử úy sinh tử cố, sắc, thanh, hương, vị, xúc đắc kỳ tiện dã. Dĩ ly úy giả, nhất thiết ngũ dục vô năng vi dã. Kết tập vị tận, hoa trước thân nhĩ. Kết tập tận giả, hoa bất trước dã.
Xá-lỵ-phất ngôn: Thiên chỉ thử thất, kỳ dĩ cửu như?
Đáp viết: Ngã chỉ thử thất, như kỳ niên giải thoát.
Xá-lỵ-phất ngôn: Chỉ thử cửu da?
Thiên viết: Kỳ niên giải thoát, diệc hà như cửu?
Xá-lỵ-phất mặc nhiên bất đáp.
Thiên viết: Như hà kỳ cựu đại trí nhi mặc?
Đáp viết: Giải thoát giả, vô sở ngôn thuyết. Cố ngô ư thị bất tri sở vân.
Thiên viết: Ngôn thuyết, văn tự giai giải thoát tướng. Sở dĩ giả hà? Giải thoát giả, bất nội, bất ngoại, bất tại lưỡng gian. Văn tự diệc bất nội, bất ngoại, bất tại lưỡng gian.
Thị cố, Xá-lỵ-phất! Vô ly văn tự thuyết giải thoát dã. Sở dĩ giả hà? Nhất thiết chư pháp thị giải thoát tướng.
Xá-lỵ-phất ngôn: Bất phục dĩ ly dâm, nộ, si vi giải thoát hồ?
Thiên viết: Phật vị tăng thượng mạn nhân, thuyết: ly dâm nộ si vi giải thoát nhĩ. Nhược vô tăng thượng mạn giả, Phật thuyết: dâm nộ si tánh, tức thị giải thoát.
Xá-lỵ-phất ngôn: Thiện tai, thiện tai! Thiên nữ, nhữ hà sở đắc, dĩ hà vi chứng, biện nãi như thị?
Thiên viết: Ngã vô đắc, vô chứng, cố biện như thị. Sở dĩ giả hà? Nhược hữu đắc, hữu chứng giả, tắc ư Phật pháp vi tăng thượng mạn.
Xá-lỵ-phất vấn thiên: Nhữ ư tam thừa, vi hà chí cầu?
Thiên viết: Dĩ Thanh văn pháp hóa chúng sinh cố, ngã vi Thanh văn. Dĩ nhân duyên pháp hóa chúng sinh cố, ngã vi Bích chi Phật. Dĩ đại bi pháp hóa chúng sinh cố, ngã vi Đại thừa.
Xá-lỵ-phất! Như nhân nhập chiêm-bặc lâm, duy khứu chiêm-bặc, bất khứu dư hương. Như thị nhược nhập thử thất, đản văn Phật công đức chi hương, bất nhạo văn Thanh văn, Bích chi Phật công đức hương dã.
Xá-lỵ-phất! Kỳ hữu Thích, Phạm, Tứ thiên vương, chư thiên, long, quỷ thần đẳng, nhập thử thất giả, văn tư thượng nhân giảng thuyết chánh pháp, giai nhạo Phật công đức chi hương, phát tâm nhi xuất.
Xá-lỵ-phất! Ngô chỉ thử thất thập hữu nhị niên, sơ bất văn thuyết Thanh văn, Bích chi Phật pháp. Đản văn Bồ Tát đại từ đại bi, bất khả tư nghị chư Phật chi pháp.
Xá-lỵ-phất! Thứ thất thường hiện bát vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Hà đẳng vi bát? Thử thất thường dĩ kim sắc quang chiếu, trú dạ vô dị. Bất dĩ nhật nguyệt sở chiếu vi minh. Thị vi nhất vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất nhập giả, bất vi chư cấu chi sở não giã. Thị vi nhị vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất thường hữu Thích, , Tứ thiên vương, tha phương Bồ Tát lai hội bất tuyệt. Thị vi tam vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất thường thuyết lục ba-la-mật, bất thối chuyển pháp. Thị vi tứ vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất thường tác thiên nhân đệ nhất chi nhạc, huyền xuất vô lượng pháp hóa chi thanh. Thị vi ngũ vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất hữu tứ đại tạng, chúng bảo tích mãn, chu cùng tế phạp, cầu đắc vô tận. Thị vi lục vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất Thích-ca Mâu-ni Phật, A-di-đà Phật, A-súc Phật, Bảo Đức, Bảo Viêm, Bảo Nguyệt, Bảo Nghiêm, Nan Thắng, Sư Tử Hưởng, Nhất Thiết Lợi Thành, như thị đẳng thập phương vô lượng chư Phật, thị thượng nhân niệm thời, tức giai vị lai, quảng thuyết chư Phật bí yếu pháp tạng. Thuyết dĩ hoàn khứ. Thị vi thất vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Thử thất, nhất thiết chư thiên nghiêm sức cung điện, chư Phật tịnh độ, giai ư trung hiện. Thị vi bát vị tằng hữu nan đắc chi pháp.
Xá-lỵ-phất! Thử thất thường hiện bát vị tằng hữu nan đắc chi pháp. Thùy hữu kiếnbất tư nghị sự, nhi phục nhạo ư Thanh văn pháp hồ?
Xá-lỵ-phất ngôn: Nhữ hà dĩ bất chuyển nữ thân?
Thiên viết: Ngã tùng thập nhị niên lai, cầu nữ nhân tướng, liễu bất khả đắc. Đương hà sở chuyển? Thí như ảohóa tác ảo nữ. Nhược hữu nhân vấn: Hà dĩ bất chuyển nữ thân? Thị nhân vi chánh vấn phủ?
Xá-lỵ-phất ngôn: Phất dã. Ảo vô định tướng, đương hà sở chuyển?
Thiên viết: Nhất thiết chư pháp diệc phục như thị, vô hữu định tướng. Vân hà nãi vấn: bất chuyển nữ thân?
Tức thời, thiên nữthần thông lực, biến Xá-lỵ-phất linh như thiên nữ. Thiên tự hóa thân như Xá-lỵ-phất, nhi vấn ngôn: Hà dĩ bất chuyển nữ thân?
Xá-lỵ-phất dĩ thiên nữ tượng nhi đáp ngôn: Ngã kim bất tri hà chuyển nhi biến vi nữ thân.
Thiên viết: Xá-lỵ-phất! Nhược năng chuyển thử nữ thân, tắc nhất thiết nữ nhân diệc đương năng chuyển. Như Xá-lỵ-phất, phi nữ nhi hiện nữ thân. Nhất thiết nữ nhân diệc phục như thị, tuy hiện nữ thân, nhi phi nữ dã. Thị cố Phật thuyết: Nhất thiết chư pháp phi nam phi nữ.
Tức thời, thiên nữ hoàn nhiếp thần lực. Xá-lỵ-phất thân hoàn phục như cố.
Thiên vấn Xá-lỵ-phất: Nữ thân sắc tướng, kim hà sở tại?
Xá-lỵ-phất ngôn: Nữ thân sắc tướng vô tại, vô bất tại.
Thiên viết: Nhất thiết chư pháp diệc phục như thị, vô tại, vô bất tại. Phù vô tại, vô bất tại giả, Phật sở thuyết dã.
Xá-lỵ-phất vấn Thiên: Nhữ ư thử một, đương sinh hà sở?
Thiên viết: Phật hóa sở sinh, ngô như bỉ sinh.
Viết: Phật hóa sở sinh, phi một sinh dã.
Thiên viết: Chúng sinh do nhiên, vô một sinh dã.
Xá-lỵ-phất vấn thiên: Nhữ cửu như đương đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề?
Thiên viết: Như Xá-lỵ-phất hoàn vi phàm phu, ngã nãi đương thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Xá-lỵ-phất ngôn: Ngã tác phàm phu, vô hữu thị xứ.
Thiên viết: Ngã đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, diệc vô thị xứ. Sở dĩ giả hà? Bồ-đề vô trụ xứ. Thị cố vô hữu đắc giả.
Xá-lỵ-phất ngôn: Kim chư Phật đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, dĩ đắc, đương đắc như Hằng hà sa. Giai vị hà hồ?
Thiên viết: Giai dĩ thế tục văn tự sổ cố, thuyết hữu tam thế. Phi vị Bồ-đề hữu khứ lai, kim.
Thiên viết: Xá-lỵ-phất! Nhữ đắc A-la-hán đạo da?
Viết: Vô sở đắc cố nhi đắc.
Thiên viết: Chư Phật, Bồ Tát diệc phục như thị: vô sở đắc cố nhi đắc.
Nhĩ thời, Duy-ma-cật ngứ Xá-lỵ-phất: Thị thiên nữ dĩ tằng cúng dường cửu thập nhị ức chư Phật, dĩ năng du hý Bồ Tát thần thông, sở nguyện cụ túc, đắc vô sinh nhẫn, trụ bất thối chuyển. Dĩ bổn nguyện cố, tùy ý năng hiện, giáo hóa chúng sinh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31340)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26226)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27528)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27921)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26717)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31237)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20266)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22943)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30063)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21578)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20250)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22669)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20759)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30318)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28796)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34732)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44237)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35518)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22547)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21379)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20690)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24767)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37928)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19048)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19334)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21835)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20874)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29528)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35147)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28827)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32609)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26229)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28933)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43152)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34972)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43944)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37916)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21335)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43030)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49016)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39848)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53785)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36827)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49740)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47315)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27711)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27030)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27236)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24079)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20857)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34323)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22471)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25126)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25851)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22956)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22474)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21764)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23325)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant