Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Phẩm Dược thảo dụ

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9897)
5. Phẩm Dược thảo dụ

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

  QUYỂN THỨ BA
PHẨM "DƯỢC-THẢO-DỤ" THỨ NĂM


 1. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Ma-ha Ca-Diếp các vị đại đệ tử: "Hay thay! Hay thay! Ca-Diếp. Khéo nói được công đức chơn thật của đức Như-Lai. Đúng như lời các ông vừa nói; đức Như-Lai lại còn có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ công đức, các ông dầu trải qua vô lượng ức kiếp nói cũng không hết được".
 Ca-Diếp nên biết! Đức Như-Lai là vua của các pháp nếu có nói ra lời chi đều không hư dối vậy. Phật ở nơi tất cả pháp dùng sức trí huệ phương tiện mà diễn nói, pháp của Phật nói thảy đều đến bậïc nhứt-thiết-trí (1) . Đức Như-Lai xem biết chỗ quy thú (2) của tất cả pháp; cũng rõ biết chỗ tâm sở hành (3) của tất cả chúng sanh không thấu không ngại. Phật lại ở nơi các pháp rốt ráo rõ biết hết, chỉ bày tất cả trí huệ cho các chúng sanh.

 2. Ca-Diếp! Thí như trong cõi tam-thiên đại-thiên nơi núi, sông, khe, hang, ruộng, đất sanh ra cây cối, lùm rừng và các cỏ thuốc, bao nhiêu giống loại tên gọi màu sắc đều khác. Mây dầy bủa giăng trùm khắp cõi tam-thiên đại-thiên (4) đồng thời mưa xối xuống, khắp nơi nhuần thấm, cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc: hoặc thứ gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ, hoặc thứ gốc chỉ vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa; hoặc có thứ gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn.
 Các giống cây lớn nhỏ, tùy hạng thượng trung hạ mà hấp thụ khác nhau. Một cụm mây tuôn mưa xuống xứng theo mỗi giống loại mà cây cỏ được sanh trưởng, đơm bông kết trái. Dầu rằng một cõi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ cây đều có sai khác.

 3. Ca-Diếp nên biết! Đức Như-Lai cũng lại như thế, hiện ra nơi đời như là vừng mây lớn nổi lên, dùng giọng tiếng lớn vang khắp thế giới cả trời, người, A-tu-la, như mây lớn kia trùm khắp cõi nước tam-thiên đại-thiên. Phật ở trong đại chúng mà xướng lời nầy:
 "Ta là đấng Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn. Người chưa được độ thời làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ thời làm cho tỏ ngộ, người chưa an thời làm cho được an, người chưa chứng Niết-bàn thời làm cho chứng Niết-bàn, đời nay và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc nhứt-thiết-trí, bậc nhứt-thiết-kiến, là bậc tri đạo, bậïc khai đạo, bậïc thuyết đạo. Các ngươi, hàng trời, người, A-tu-la đều nên đến đây vì để nghe pháp vậy."
 Bấy giờ có vô số nghìn muôn ức loài chúng sanh đi đến chỗ đức Như-Lai xem xét các căn lợi độn, tinh tấn hay giải đãi của chúng sanh đó, thuận vừa sức nó kham được mà vì chúng nói pháp, chủng loại nhiều vô lượng, Phật đều khiến vui mừng được nhiều lợi lành. Các chúng sanh nầy nghe pháp rồi, hiện đời an ổn, đời sau sanh về chỗ lành, do đạo được thọ hưởng vui và cũng được thọ hưởng vui và cũng được nghe pháp, đã nghe pháp rồi lìa khỏi các chướng ngại ở trong các pháp theo sức mình kham được lần lần đều được vào đạo.Như mây lớn kia mưa rưới khắp tất cả cỏ cây lùm rừng và các cỏ thuốc, theo giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng.
 Đức Như-Lai nói pháp một tướng một vị, nghĩa là: Tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, rốt ráo đến bậc "nhứt-thiết-chủng-trí". Có chúng sanh nào nghe pháp của Như-Lai hoặc thọ trì đọc tụng, đúng như lời mà tu hành, được công đức tự mình không hay biết.

 Vì sao? Vì chỉ có Như-Lai là biết chủng tướng thể tánh của chúng sanh đó: Nhớ việc gì? Nghĩ việc gì? Tu việc gì? Nhớ thế nào? Nghĩ thế nào? Tu thế nào?

 Dùng pháp gì để nhớ? Dùng pháp gì để nghĩ? Dùng pháp gì để tu? Dùng pháp gì đặng pháp gì?

 Chúng sanh ở nơi các bậïc, chỉ có đức Như-Lai thấy đó đúng như thật, rõ ràng không bị ngại. Như cây cối lùm rừng các cỏ thuốc kia không tự biết tánh thượng trung hạ của nó.

 Đức Như-Lai biết pháp một tướng một vị ấy, nghĩa là: Tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, tướng rốt ráo Niết-bàn thường tịch diệt, trọn về nơi không, Phật biết như thế rồi xem xét tâm ưa muốn của chúng sanh mà dắt dìu nó, cho nên chẳng liền vì chúng vội nói " nhứt-thiết-chủng-trí."

 Ca-Diếp! Các ông rất là hy hữu, có thể biết rõ đức Như-Lai tùy cơ nghi nói pháp, hay tin hay nhận. Vì sao? Vì các đức Phật Thế-Tôn tùy cơ nghi nói pháp khó hiểu khó biết.

 Khi đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 
 4. Pháp Vương phá các cõi

 Hiện ra trong thế gian

 Theo tánh của chúng sanh

 Dùng các cách nói pháp

 Đức Như-Lai tôn trọng

 Trí huệ rất sâu xa

 Lâu giữ pháp yếu này

 Chẳng vội liền nói ra

 Người trí nếu được nghe

 Thời có thể tin hiểu,

 Kẻ không trí nghi hối

 Thời bèn là mất hẳn.

 Ca-Diếp! Vì cớ đó

 Theo sức chúng nói pháp

 Dùng các món nhân duyên

 Cho chúng được chánh kiến

 Ca-Diếp! ông nên biết

 Thí như vừng mây lớn

 Nổi lên trong thế gian

 Che trùm khắp tất cả

 Mây trí huệ chứa nhuần

 Chớp nhoáng sáng chói lòa

 Tiếng sấm xa vang động

 Khiến mọi loài vui đẹp

 Nhậït quang bị che khuất

 Trên mặt đất mát mẻ

 Mây mù sa bủa gần

 Dường có thể nắm tới.

 Trận mưa đó khắp cùng

 Bốn phương đều xối xuống

 Dòng nước tuôn vô lượng

 Cõi đất đều rút đầy

 Nơi núi sông hang hiểm

 Chỗ rậm rợp sanh ra

 Những cây cối cỏ thuốc

 Các thứ cây lớn nhỏ

 Trăm giống lúa mộng mạ

 Các thứ mía cùng nho

 Nhờ nước mưa đượm nhuần

 Thảy đều tươi tốt cả.

 Đất khô khắp được rưới

 Thuốc cây đều sum sê

 Vừng mây kia mưa xuống

 Nước mưa thuần một vị

 Mà cỏ cây lùm rừng

 Tất cả các giống cây

 Hạng thượng trung cùng hạ

 Xứng theo tánh lớn nhỏ

 Đều được sanh trưởng cả.

 Gốc thân nhánh và lá

 Trổ bông trái sắc vàng

 Một trận mưa rưới đến

 Cây cỏ đều thấm mướt

 Theo thể tướng của nó

 Tánh loại chia lớn nhỏ

 Nước đượm nhuần vẫn một

 Mà đều được sum sê.

 5. Đức Phật cũng như thế

 Hiện ra nơi trong đời

 Ví như vầng mây lớn

 Che trùm khắp tất cả

 Đã hiện ra trong đời

 Bèn vì các chúng sanh

 Phân biệt diễn nói bày

 Nghĩa thật của các pháp

 Đấng Đại-Thánh Thế-Tôn

 Ở trong hàng trời người

 Nơi tất cả chúng hội

 Mà tuyên nói lời nầy:

 Ta là bậc Như-Lai

 Là đấng Lưỡng-Túc-Tôn (5)

 Hiện ra nơi trong đời

 Dường như vầng mây lớn

 Thấm nhuần khắp tất cả

 Những chúng sanh khô khao

 Đều làm cho lìa khổ

 Được an ổn vui sướng

 Hưởng sự vui thế gian

 Cùng sự vui Niết-bàn.

 Các chúng trời người nầy

 Một lòng khéo lóng nghe

 Đều nên đến cả đây

 Ra mắt đấng vô thượng.

 Ta là đấng Thế-Tôn

 Không có ai bằng được

 Muốn an ổn chúng sanh

 Nên hiện ra trong đời

 Vì các đại chúng nói

 Pháp cam lồ trong sạch

 Pháp đó thuần một vị

 Giải thoát Niết-bàn thôi.

 Dùng một giọng tiếng mầu

 Diễn xướng nghĩa nhiệm nầy

 Đều thường vì Đại-thừa

 Mà kết làm nhân duyên.

 Ta xem tất cả chúng

 Khắp đều bình đẳng cả

 Không có lòng bỉ thử

 Cũng không có hạn ngại

 Hằng vì tất cả chúng

 Mà bình đẳng nói pháp

 Như khi vì một người

 Lúc chúng đông cũng vậy.

 Thường diễn nói pháp luôn

 Từng không việc gì khác

 Ngồi, đứng, hoặc đến, đi

 Trọn không hề nhàm mỏi

 Đầy đủ cho thế gian

 Như mưa khắp thấm nhuần

 Sang hèn cùng thượng hạ

 Giữ giới hay phá giới

 Oai nghi được đầy đủ

 Và chẳng được đầy đủ

 Người chánh-kiến tà-kiến

 Kẻ độn căn lợi căn

 Khắp rưới cho mưa pháp

 Mà không chút nhàm mỏi.

 Tất cả hàng chúng sanh

 Được nghe pháp của ta

 Tùy sức mình lãnh lấy

 Trụ ở các nơi các bậïc

 Hoặc là ở trời, người

 Làm Chuyển-luân thánh-vương

 Trời Thích, Phạm, các vua

 Đó là cỏ thuốc nhỏ

 Hoặc rõ pháp vô lậu

 Hay chứng được Niết-bàn

 Khởi sáu pháp thần thông

 Và được ba món minh

 Ở riêng trong núi rừng

 Thường hành môn thiền định

 Chứng được bậc Duyên-giác

 Là cỏ thuốc bậc trung.

 Hoặc cầu bực Thế-Tôn

 Ta sẽ được thành Phật

 Tu hành tinh tấn, định

 Là cỏ thuốc bậc thượng

 Lại có hàng Phật tử

 Chuyên tâm nơi Phật đạo

 Thường thật hành từ bi

 Tự biết mình làm Phật

 Quyết định không còn nghi

 Gọi đó là cây nhỏ.

 Hoặc an trụ thần thông

 Chuyển bất thối pháp luân

 Độ vô lượng muôn ức

 Trăm nghìn loài chúng sanh

 Bồ-Tát hạng như thế

 Gọi đó là cây lớn.

 Phật chỉ bình đẳng nói

 Như nước mưa một vị

 Theo căn tánh chúng sanh

 Mà hưởng thọ không đồng

 Như những cỏ cây kia

 Được đượm nhuần đều khác

 6. Phật dùng món dụ nầy
 Để phương tiện chỉ bày

 Các thứ lời lẽ hay

 Đều diễn nói một pháp

 Ở nơi trí huệ Phật

 Như một giọt trong biển.

 Ta rưới trận mưa pháp

 Đầy đủ khắp thế gian

 Pháp mầu thuần một vị

 Tùy sức riêng tu hành,

 Như thể lùm rừng kia

 Và cỏ thuốc những cây

 Tùy giống lớn hay nhỏ

 Lần lần thêm sum suê

 Pháp của các đức Phật

 Thường dùng thuần một vị

 Khiến cho các thế gian

 Đều khắp được đầy đủ

 Lần lựa siêng tu hành

 Rồi đều được đạo quả.

 Hàng Thanh-văn, Duyên-giác,

 Ở nơi chốn núi rừng,

 Trụ thân hình rốt sau

 Nghe Phật Pháp được quả

 Nếu các vị Bồ-Tát

 Trí huệ rất vững bền

 Rõ suốt cả ba cõi

 Cầu được thừa tối thượng

 Đó gọi là cây nhỏ

 Mà được thêm lớn tốt.

 Lại có vị trụ thiền

 Được sức thần thông lớn

 Nghe nói các pháp không

 Lòng rất sanh vui mừng

 Phóng vô số hào quang

 Độ các loài chúng sanh

 Đó gọi là cây lớn

 Mà được thêm lớn tốt

 Như thế, Ca-Diếp này!

 Đức Phật nói pháp ra

 Thí như vầng mây lớn

 Dùng nước mưa một vị

 Đượm nhuần nơi hoa người

 Đều được kết trái cả.

 Ca-Diếp ông phải biết

 Ta dùng các nhân duyên

 Các món thí dụ thảy

 Để chỉ bày đạo Phật

 Đó là ta phương tiện

 Các đức Phật cũng thế

 Nay ta vì các ông

 Nói việc rất chân thật

 Các chúng thuộc Thanh-văn

 Đều chẳng phải diệt độ

 Chỗ các ông tu hành

 Là đạo của Bồ-Tát

 Lần lần tu học xong

 Thảy đều sẽ thành Phật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22922)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 11704)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 19219)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 24060)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 13295)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13054)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12926)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13056)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 14405)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105886)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14648)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19851)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38492)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 14082)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12878)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13764)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12571)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19446)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27084)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13538)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21688)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18030)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 14265)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16131)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15099)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 14215)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13203)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14462)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19768)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16755)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 21181)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14806)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39199)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 19392)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14725)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16158)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14711)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15240)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14918)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15576)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39161)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14133)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24522)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14398)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19465)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18030)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21473)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19701)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17526)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14852)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13899)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13769)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14119)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21926)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16759)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15234)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14544)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14061)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14371)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant