Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Trăm Ngàn Bài Tụng Của Kinh Đại Tập Bồ Tát Địa Tạng Hỏi Phật Về Pháp Thân

04 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 14614)
Một Trăm Ngàn Bài Tụng Của Kinh Đại Tập Bồ Tát Địa Tạng Hỏi Phật Về Pháp Thân

 

MỘT TRĂM NGÀN BÀI TỤNG CỦA KINH ÐẠI TẬP

BỒ TÁT ÐỊA TẠNG HỎI PHẬT VỀ PHÁP THÂN.


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Đại Tập, số 0413

Nguyên tác: [1]

Hán dịch: Khai Phủ Nghi Ðồng Tam Ty, đặc Tấn Hồng Lô Khanh Ðại Hưng tự, Ðại Tam Tạng Sa môn Bất Không.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Quy mạng lệ pháp thân

Ở giữa các hữu tình

Vì chúng không biến tri

Mới luân hồi Tam hữu

Mê tánh liền sanh tử

Tịnh thời cũng như xưa

Thanh tịnhNiết Bàn

Cũng chính là pháp thân

Thí như sữa xen tạp

Không thể thành Ðề hồ

Như phiền não xen tạp

Không thể thấy pháp giới

Thí như sữa lọc sạch

Tô tinh diệu không

Như thanh tịnh phiền não

Pháp giới rất thanh tịnh

Như đèn để trong bình

Aùnh sáng làm sao có?

Như trong bình phiền não

Pháp giới không chiếu sáng

Ðể ngọn đèn một bên

Cái bình có lỗ hỏng

Do để đèn một bên

Aùnh sáng chiếu ra ngoài

Dùng chày Tam ma địa

Ðập bể bình phiền não

Ðầy khắp cả hư không

Aùnh sáng chiếu tất cả

Pháp giới cũng không sanh

Cũng không từng hoại diệt

Tất cả thời không nhiễm

Ðầu, giữa thường thanh tịnh

Thí như phệ lưu ly

Lúc nào cũng rất sáng

Hang đá vì che tối

Aùnh sáng không chiếu diệu

Như vậy, phiền não che

Pháp giới diệu thanh tịnh

Không chiếu nơi sanh tử

Thì Niết Bàn rực sáng

Hữu tánh nếu có công

Thì thấy được vàng thiệt

Vô tánh nếu có công

Khổ mà không kết quả

Như trấu phủ lên trên

Không thể gọi là gạo

Phiền não phủ lên trên

Cũng không gọi là Phật

Nếu bỏ được vỏ trấu

Rõ ràng là gạo trắng

Xa lìa được phiền não

Pháp thân được hiển hiện

Thế gian lấy thí dụ

Cây chuối không chắc thật

Mà có quả chơn thật

Thực vị như cam lồ

Như sanh tử không thật

Lưu chuyển biển phiền não

Quả ấy chính thể Phật

Thí cam lồ hữu thí

Như vậy với các loại

In tuồng sanh ra quả

Không chủng cũng không quả

Kẻ trí quyết không tin

Chủng tử sanh ra tánh

Chỗ nương của các pháp

Thứ lớp nếu thanh tịnh

Ðạt được quả vị Phật

Nhật nguyệt không cấu uế

Vì năm thứ ngăn che

Mây, sương và khói thảy

Tay-la-hầu và bụi

Như vậy tâm chiếu sáng

Ngăn che bởi năm cấu

Tham ái, sân nhuế, thùy (miên)

Trạo cửnghi hoặc

Như lấy lửa giặt áo

Với các dơ bất tịnh

Nếu đôi vào trong lửa

Cháy dơ không cháy áo

Không loại, các khế kinh

Ðều do Như Lai nói

Thí như đất dưới nước

Thường trụthanh tịnh

Trí ẩn nơi phiền não

Thanh tịnh cũng như vậy

Pháp giới cũng phi ngã

Chẳng nữ cũng chẳng nam

Xa lìa tất cả chấp

Vì sao phân biệt ngã

Các pháp không trói buộc

Nam nữ cũng không có

Ðiều phục kẻ tham mù

Thị hiện tướng nam nữ

Tánh vô thường, khổ, không

Tâm tịnh lự có ba

Tâm tịnh lự tối thắng

Các pháp không tự tánh

Như con trong bào thai

Tuy có mà không hiện

Phân biệt có bốn loại

Ðã sanh bởi đại tạo

Ðại nguyện tất cả Phật

Vô sở hữu, vô tướng

Nhờ tự giác tương ưng

Tánh thường pháp chư Phật

Như nói thỏ có sừng

Phân biệt mà chẳng có

Như vậy tất cả pháp

Phân biệt không thể được

Phân tích như bụi nhỏ

Phân biệt không thể được

Như đầu, cuối cũng vậy.

Trí làm sao phân biệt

Như vậy hòa hợp sanh

Hòa hợp cũng hoại diệt

Một pháp tự chẳng sanh

Vì sao ngu phân biệt?

Dụ hai sừng thỏ, trâu

Ðó gọi tướng biến kế

An trụ nơi trung đạo

Như pháp tánh thiện thệ

Như trăng và tinh tú

Hiện trong hủ nước sạch

Aûnh tượng mới hiển hiện

Như vậy tướng viên thành

Ðầu, giữa đều là thiện

Thường hằng không dối láo

Không có năm thứ ngã

Sao gọi ngã phân biệt?

Thí như khi nấu nước

Nên gọi là nước nóng

Vậy thì khi để lạnh

Thì gọi là nước lạnh

Lưới phiền não che lấp

Thì gọi đó là tâm

Nếu lìa bỏ phiền não

Thì gọi là đẳng giác

Nhãn thức duyên nơi sắc

Aûnh tượng rất thanh tịnh

Không sanh cũng không diệt

Pháp giới không hình tướng

Nhĩ thức duyên nơi tiếng

Thanh tịnh thức ba thứ

Nhờ tự phần riêng nghe

Pháp giới không hình tướng

Mũi theo hương mà ngửi

Không sắc cũng không hình

Tỷ thứcchơn như

Pháp giới nên phân biệt

Thiệt giới tự tánh không

Tánh vị giới xa lìa

Không y cũng không thức

tự tánh pháp giới

Tự tánh thân thanh tịnh

Ðã xúc tưởng hòa hiệp

Xa lìa chỗ sở duyên

Ta nói là pháp giới

Các pháp ý là lớn

Lìa phân biệt năng sở

Pháp giới vô tự tánh

Pháp giớiphân biệt

Hay thấy, nghe và ngửi

Là vị và xúc chạm

Pháp Du Già nên biết

Như vậy tướng viên thành

Nhãn, nhỉ cùng với tỷ

Thiệt, thân và mạt na

Sáu xứ đều thanh tịnh

Tướng của nó như vậy

Tâm thấy có hai loại

Thế gian, xuất thế gian

Chấp ngã nên lưu chuyển

Tự giácchơn như

Vô tậnNiết Bàn

Nếu hết tham và si

Biết nó là Phật thể

Chỗ hữu tình qui y

Tất cả với thân này

Có trí hay không trí

Trói buộc, tự phân biệt

Nhờ ngộ được giải thoát

Bồ đề không gần xa

Không đến cũng không đi

Hoại diệthiển hiện

Với lưới phiền não này

Nói các loại khế kinh

Ðứng trên tự tư duy

Ðèn trí huệ chiếu sáng

Liền được tối thắng tịch

Bồ đề không nghĩ xa

Cũng không có nghĩ gần

ảnh tượng sáu cảnh

Ðều do như vậy biết

Như nước hòa với sữa

Ðồng ở trong một bình

Ngỗng (chúa) uống hết sữa

Chỉ còn nước trong bình

Như vậy trộn phiền não

Và trí ở trong bình

Bậc Du Già uống trí

Vứt bỏ các phiền não

Như vậy ngã, ngã chấp

Cho đến sở thủ chấp

Nếu thấy hai vô ngã

Có chủng mà hoại diệt

Phật Bát Niết Bàn

Thường thanh tịnh vô cấu

Phàm phu phân biệt hai

Kinh Du Già vô nhị

Thì tất cả là khó

Lấy giới nhiếp hữu tình

Nhẫn nhục tất cả tổn

Cõi tăng thêm làm ba

Ðối các pháp tinh tấn

Tâm tịnh lự gia hạnh

Thường tập sự trí tuệ

Lại được tăng Bồ đề

Phương tiện cùng với huệ

Nhờ nguyện đều thanh tịnh

Nhờ lực diệu kiên trí

Cõi thêm làm bốn loại

“Không nên lạy Bồ Tát”

Không sanh ra pháp thân

Không ưa loại cây mía

Lại muốn ăn đường phèn

Nếu bỏ loại cây mía

Làm gì có đường phèn?

Nếu gìn giữ cây mía

Ba thứ mới được sanh

Ðường, một nửa đường phèn

Trong đó mới sanh ra

Nếu giữ tâm Bồ đề

Ba thứ mới sanh ra

Như gìn giữ mạ, lúa

Nông phu nhờ đó sống

Như hạnh thắng giải trước

Như Lai bảo phải giữ

Như ngàn rằm trăng sáng

Thấy rõ mặt trăng tròn

Như vậy Thắng giải hạnh

Aûnh hiện hình tướng Phật

Cũng như trăng mới mọc

Tăng từng phút, từng phút

Như vậy người nhập địa

Từng niệm thấy tăng ích

Như trăng sáng ngày rằm

Mặt trăng mới tròn trịa

Như vậy cứu cánh địa

Pháp thân mới được sanh

Thắng giải kia kiên cố

Thường đối với Phật pháp

Hay phát tâm như vậy

Ðược sự bất thối chuyển

Nhiễm y được chuyển y

Ðược gọi là Tịnh y

Nhờ một phần giác ngộ

Gọi là Cực-Hỷ-Ðịa

Luôn luôn bị nhiễm ô

Dục ... các thứ cấu uế

Không cấu, được thanh tịnh

Gọi là Ly cấu địa

Hoại diệt lưới phiền não

Chiếu diệu được Ly cấu

Lìa vô lượng tối tăm

Gọi là Phát Quang Ðịa

Thanh tịnh thường chiếu sáng

Xa lìa Thế kiết tường

Chung quanh trí huệ chiếu

Gọi là Diệm Huệ Ðịa

Tất cả kỹ nghệ sáng

Trang sức các tỉnh lự

Nan thắng trị phiền não

Ðược thắng nan thắng địa

Với ba thứ Bồ đề

Nhiếp thọ khiến thành tựu

Sanh diệt rất thậm thâm

Gọi là Hiện tiền địa

Du hý nơi lưới sáng

Biến khắp trời Ðế Thích

Vượt qua dòng thác dục

Gọi là Viễn hành địa

Tất cả Phật gia trì

Sáp nhập vào biển trí

Tự tại vô công dụng

Bất động giữa sứ ma

Với các vô ngại giải

Du Già đến bờ kia

Với thuyết pháp đàm luận

Gọi là Thiện huệ địa

Thân nhờ trí mà thành

Như hư không vô cấu

Chư Phật đều hộ trì

Cùng khắp như mây pháp

Chỗ nương tựa Phật pháp

Hạnh quả đều gìn giữ

Sở y đều được chuyển

Nên gọi là pháp thân

Lìa Bất tư nghị luận

Và lìa lưu chuyển tập

Ngươi không nghĩ ý nghĩ

Làm sao mà được biết

Vượt qua các ngôn ngữ

Tất cả căn, phi cảnh

Yù thức đã nắm giữ

Như sở hữu bản ngã

Thứ lớp mà tích tập

Phật tử đại danh xưng

Ðều dùng trí Pháp Vân

Vi tế thấy pháp tánh

Khi nào rửa sạch tâm

Vượt qua biển sanh tử

Ngài dùng hoa sen lớn

Làm tòa lớn an tọa

Vô lượng lá báu sáng

Aùnh sáng báu là đài

Vô lượng ức hoa sen

Cùng khắp là quyến thuộc

Trước dùng mười thứ lực

Dùng bốn loại vô úy

Bất cọng pháp các Phật

Ðại tự tại mà ngồi

Tập hợp tất cả thiện

Phước trí làm lương thực

Trăng tròn giữa các sao

Cùng khắp mà vây quanh

Mới dùng tay Phật nhật

Lấy bảo quang trong sạch

Chiếu trên đầu trưởng tử

Khắp nơi đều thấm nhuần

Ngài trụ Ðại Du già

Ðều thấy bằng thiên nhãn

Vô minh quấy rối đời

Aùc tập khổ, sợ hãi

Giống như ánh sắc vàng

Từ ánh sáng Du già

Kẻ vô tri che lấp

Ðược mở cửa vô minh

Nhờ phước trí chiêu cảm

Nhờ giữ định không chấp

Từ duyên mà viên tịch

Tâm đều được biến hóa

Các pháp không tự tánh

Tự tánh nơi cảnh giới

Bồ Tát vương khéo quán

Pháp thân diệu không

Ðều nhờ thân trong sạch

An trụ nơi biển trí

Liều làm lợi chúng sanh

Như ngọc Ma Ni khéo

Tất cả bậc Du Già

Ðại Du già tự tại

Bóng Phật đều biến hóa

Biến khắp mà lưu xuất

Hoặc người có tám tay

Ba mắt thân bừng sáng

Họ nhờ Du già vương

Biến khắp mà lưu xuất

Ðều nhờ tay Từ bi

Thắng hỷ, nắm cây cung

Bắn bằng tên Bát nhã

Ðoạn hết tế vô minh

Dùng đại lực tiến lên

Nắm giữ gậy trí huệ

Tất cả giống vô minh

Thảy đều bị dập nát

Các hữu tình sức lực

Kim Cang thân rực rỡ

điều phục hữu tình

Phải dùng Kim Cang thủ

Tự mình là tác giả

Thị hiện các thứ tập

Dạy dỗ đúng giáo lý

Biến làm vua bình đẳng

Ðói khát thiêu đốt thân

Thí như các ẩm thực

Thường khổ vì bệnh tật

Thí làm Y vương giỏi

Ma vương mong não loạn

Ma nữ làm mê hoặc

Bồ Tát làm thân hữu

Hay thí chỗ Bồ đề

Như mặt trời, mặt trăng

Aùnh sáng ai cũng thích

Thông chảy như điện sáng

Chiếu diệu vô số cõi

Do nhờ một ngọn đèn

Chiếu khắp nơi đều sáng

Nếu một đèn bị tắt

Tất cả đèn tắt theo

Như vậy Phật dị thục

Thị hiện các ánh sáng

Một Phật hiện Niết bàn

Các Phật cũng qui tịch

Một vị không diệt độ

Trời sáng làm sao tối

Thường hiện sự sanh diệt

Thường hiện biển sát độ

Kẻ vô trí đời tối

Hay tịnh trí huệ nhãn

Ði đến vô số cõi

Xót thương các hữu tình

Ngài đều không mệt mỏi

Nhờ áo giáp đại từ

Với tất cả thần túc

Du già đến bỉ ngạn

Ðều quán thời, phi thời

Khiến họ được lưu chuyển

Cứng rắn với dua nịnh

Tức thời liền vứt bỏ

Ðộ vô lượng hữu tình

Tức thì khiến thanh tịnh

Vô lượng Phật biến hóa

Tức thì được đổi dạng

Với trong biển ba cõi

Giăng tấm lưới điều phục

Co duỗi lưới diệu pháp

Phổ biến khiến thành thục

Nhờ dùng lưới điều phục

Khắp nơi được thành thục

Khắp nơi được giác ngộ

Kẻ phiêu lưu trong đó

Như hàng ngàn hữu tình

Ðã độ thoát tất cả

Ðộ rồi khiến giác ngộ

Không nghi ngờ diệu pháp

Chuông diệu pháp Thế Tôn

Khiến tất cả được nghe

Nhờ diệu pháp chấn động

Trừ sạch bụi phiền não

Người vô minh, tăng thượng

Khiến thanh tịnh tức khắc

Dùng sức sáng mặt trời

Chiếu phá sự mù tối

Vì theo phiền não tối

Và tội khác của thân

Khiến họ làm lợi ích

Dần dần được thanh tịnh

Nơi nơi người hiện hóa

An trụ như thủy nguyệt

Phiền não khuấy nhiễu tâm

Không thấy được Như Lai

Như ngạ quỷ ở biển

Chỉ thấy toàn biển khô

Như vậy kẻ ít phước

Không thể thấy được Phật

Kẻ hữu tình ít phước

Làm sao thành Như Lai?!

Như kẻ mù lúc sanh

Ngồi trên đống châu báu

Làm sao mà thấy được?!

Pháp thân bậc vô thượng

Thân Nhật quang vô số

Lưới ánh sáng vây quanh

Chư thiên ít thiện phước

Nên không thể thấy được

Bậc trời lớn ở trên

Làm sao mà thấy được?

Sắc ngài không thể thấy

Chư thiên lìa phiền não

Thiên, Tu la, Phạm thảy

Vì sao còn chút huệ

Nhưng nhờ oai lực Phật

thanh tịnh tự tâm

Mới thấy được thân Phật

Ðược tất cả lợi ích

Hữu tình phước đoan nghiêm

Phật đứng trước người đó

Hào quang chiếu diệu thân

Ba mươi hai tướng tốt

Bậc trượng phu như vậy

Thầy giống như biển lớn

Không cần nhiều thời gian

Liền được trí như biển

Sắc thân của Thế Tôn

An trụ trong nhiều kiếp

Ðiều phục kẻ khó điều

Dẫn đến giới các loại

Ðại Du già sống lâu

Vì sao lại chết yểu

Với vô số người khác

Thị hiện tuổi tăng giảm

Vô lượng vô số kiếp

Từng mạng sống tăng trưởng

Nhân duyên vô cùng tận

Ðạt được quả vô tận.

Nếu ai tương ưng hiểu lý này

Lấy huệ phân tích ngay nơi thân

Kẻ ấy sanh nơi Tịnh Liên Hoa

Nghe pháp Phật nói vô lượng thọ.

 

MỘT TRĂM NGÀN BÀI TỤNG CỦA KINH ÐẠI TẬP

BỒ TÁT ÐỊA TẠNG HỎI PHẬT VỀ PHÁP THÂN.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22900)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 11674)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 19182)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 23989)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 13276)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13010)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12904)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13033)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 14357)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105819)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14625)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19813)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38453)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 14051)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12849)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13733)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12530)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19400)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27050)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13502)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21634)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18001)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 14237)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16093)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15077)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 14183)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13167)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14421)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19716)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16733)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 21142)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14779)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39144)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 19342)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14694)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16133)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14685)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15224)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14887)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15540)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39092)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14102)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24492)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14362)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19429)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 17986)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21435)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19675)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17483)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14807)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13872)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13746)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14108)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21889)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16730)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15230)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14521)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14034)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14336)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant