Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương bảy

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9609)
Chương bảy

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG BẢY

39.-ÂM:

Tu Bồ Đề? Ư ý vân hà? - Như Lai đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề gia? Như Lai hữu sở thuyết pháp gia? Tu Bồ Đề ngôn: "Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, vô hữu định pháp, danh A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, diệc vô hữu định pháp Như Lai khả thuyết".

NGHĨA:

Này Tu Bồ Đề? Ý ông thế nào? - Như Lai có đặng pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Như Lai có chỗ chi thuyết pháp chăng? Tu Bồ Đề bạch Phật: "Như con rõ nghĩa của Phật nói, thì không có định chắc pháp chi kêu là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có định chắc pháp chi mà Như Lai nói".

 

Giải : Tăng Nhược Nột giải: Không sanh tỏ thấu ý Phật nên nói trong cái nghĩa thứ nhứt, không có định chắc là có pháp chi mà đặng, và có pháp chi mà thuyết.

Trần Hùng giải: Trong kinh Lăng Già luận bảy thứ "không" có , có nói. Cả thảy pháp, lìa bỏ lời nói là không; nghĩa thứ nhứt  thì bực Thánh trí mới là đại không.

Như Lai tỏ đặng lý mầu nhiệm của nhơn không vốn không pháp chi mà đặng, cũng không pháp chi mà thuyết, nên mới lập ra lời hỏi ấy.

Đạo Vô thượng Bồ đề  là nghĩa thứ nhứt tất sâu xa không thế hình trạng đặng; hoặc trì giới nhẫn nhục mà đặng; hoặc tinh tấn thiền định mà đặng; hoặc xây tháp cất chùa, hoặc xưng niệm  Nam mô  cũng đều đặng cả, đâu có phải câu nệ theo pháp chi mà nhứt định hay sao?

Như Lai thương chúng sanh chưa tỏ ngộ, chẳng nỡ làm thinh mà không dùng ngôn thuyết, hoặc vì kẻ có chí cầu Thắng pháp  mà thuyết, hoặc vì kẻ cầu  Vô thượng huệ  mà thuyết, hoặc vì kẻ cầu Thanh Văn  mà thuyết, hoặc vì kẻ cầu làm Bích Chi Phật mà thuyết, đều ứng theo cơ duyêntrả lời, tùy chỗ cầu hỏi mà đáp lại, nào có pháp chi định chắc đâu?

Phật đã tột thấu cái nghĩa biến thông không chấp không trước, còn ông Tu Bồ Đề nói hai lần "không có pháp chi định chắc" vậy không phải là rõ đặng nghĩa của Phật thuyết hay sao?

Lý Văn Hội giải: Như Lai hữu sở thuyết pháp gia: Là ý của Phật hỏi đó, là còn e cho người nói Như Lai có chỗ thuyết -  Vô hữu định phápcăn khí  có chậm mau, tài học có cao thấp, tùy cơ duyên mà lập pháp, nhận chứng bịnh mà đầu thang.

Kinh  Pháp Hoa  có nói: "Các  căn khí  có mau chậm, hoặc tinh tấn giải đãi, tùy theo tài lựcthuyết pháp, cho nên pháp không định chắc mê ngộ khác nhau. Khi chưa  tỏ ngộ  tợ hồ không chỗ đặng, đến khi  tỏ ngộ  rồi tợ hồ có chỗ đặng. Đặng cùng không đặng đều là vọng kiến, nhưng chẳng nên chấp trước mới hiệp lý trung đạo; nào phải có pháp chi định chắc mà thuyết đâu?

Xuyên Thiền sư giải: Lạnh thì nói lạnh, nóng thì nói nóng.

Tụng: 

 

Mây ở Nam san mưa Bắc san,

Giống lừa, giống ngựa kể muôn ngàn.

Kìa coi lấy nước vô tình đó,

Mấy chỗ theo vuông mấy chỗ tròn.

 

40.-ÂM:

Hà dĩ cố? - Như Lai sở thuyết pháp, giai bất khả thủ, bất khả thuyết phi pháp phi phi pháp.

NGHĨA:

Bởi cớ sao? Bởi chỗ thuyết pháp, của Như Lai, đều chẳng nên chấp, là chẳng nên nói phi pháp cùng chẳng phải phi pháp.

 

Giải : Tạ Linh Vận giải: Phi pháp  là chẳng có, phi phi pháp  là chẳng không; có không đều không, mới là đúng lý.

Vương Nhựt Hưu giải: Pháp  là vì chúng sanh mà lập ra, chớ chẳng phải là có pháp chơn thiệt, cho nên nói: "Chẳng phải pháp". Nhưng mà, cũng phải mượn pháp để khai ngộ cho chúng sanh, lại cũng không nên nói quyết là "Chẳng phải phi pháp". Cho nên nói: "Chẳng phải phi pháp".

Trần Hùng giải: Pháp của Như Lai thuyết đó, là pháp Vô thượng Bồ đề, dùng tâm tánh mà tu thì đặng, chớ không dùng sắc tướng mà lấy đặng; nếu lấy đặng thì làm sao thấu đáo đến chỗ nhiệm mầu của tánh lý? Dùng tâm truyền thì đặng, chớ dùng lời nói mà nói thì không đặng; nếu nói đặng thì làm sao mà siêu thoát cái phạm vi của ngôn ý? Cho nên ông Tu Bồ Đề mới biện luận đến hai lần "chẳng nên".

Cái pháp ấy, nhiệm mầu huyền diệu sâu xa khó hiểu, một lý cho là có, tuy có mà chẳng hề có, một lý cho là không, tuy không mà chẳng hề không. Ấy là cái ý nghĩa "phi pháp chẳng phải phi pháp". Chơn không mà chẳng không, cũng như vậy chăng?

Lý Văn Hội giải: Bất khả thủ : là ông Không Sanh rất e cho người học đạo không tỏ cái ý "vô tướng" của Như Lai. Bất khả thuyết: là rất e cho người học đạo chấp trước những câu bài của Như Lai nói. Phi: là không - Phi phi : là chẳng không.

Huỳnh Nghiệt Thiền Sư giải: Pháp vốn chẳng có, nhưng chớ cho là không, pháp vốn chẳng không, nhưng chớ cho là có. Nói không, thành ra đoạn diệt, nói có, phạm vào tà kiến.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

 

 Tu hành lìa luận thuyết, Tự thuở hẳn vô nhơn.

 Lý nhị không viên mãn, Chứng tam muội pháp thân

 Trước tâm thì phải vọng, Không chấp mới rằng chơn

 Nếu tỏ "phi phi pháp", Tiêu diêu khỏi lục trần.

 

Xuyên Thiền sư giải: Vậy là làm sao?

Tụng: 

Làm sao cũng chẳng đặng,

Chẳng sao cũng chẳng đặng.

Trống rỗng cõi hư không,

Chim bay không ảnh dạng,

Thôi!

Giong ruỗi ngựa xe lại trở về,

Đông Tây Nam Bắc dầu du ngoạn.

41.-ÂM:

Sở dĩ giả hà? - Nhứt thế Hiền Thánh giai dĩ vô vi pháp nhi hữu si biệt.

NGHĨA:

Sở dĩ sao? - Cả thảy Hiền Thánh đều dùng pháp "vô vi" mà cũng có hơn kém.

 

Giải : Sớ Sao giải: Chưa tỏ đặng  lý nhơn không; pháp không  đều gọi là  chấp trước, tỏ hai cái lý không ấy gọi là  vô vi.

Bồ Tát đều chứng đặng hai cái  lý không; Thanh Văn mới khỏi  nhơn không  chưa thông pháp không, cho nên nói: "Khỏi đặng một cái quấy" (ly nhứt phi). Viện chứng cái nghĩa ấy cho nên nói: "Mà có hơn kém".

Lục Tổ giải: Căn tánh của ba bực thừa, sự hiểu rõ chẳng đồng nhau, nghe thấy có cao thấp, cho nên nói: "hơn kém" Phật nói cái thuyết "vô vi" ấy tức là "vô trụ", vô trụ  tức là "vô tướng", vô tướng  tức là  "vô khởi", vô khởi  tức là "vô diệt", rỗng rang vắng lặng, tỏ soi đều đủ, xem xét không ngại, mới thiệt là tánh Phật giải thoát.

Phật tức là  giác, giác  tức là quán chiếu (hồi quang phản chiếu) quán chiếu  tức là  trí huệ, trí huệ  tức là Bát Nhã.

Vương Nhựt Hưu giải: Đã nói là Hiền Thánh đều dùng pháp  vô vi  mà có hơn kém là cớ sao? Là bởi pháp vô vi, hễ tỏ đặng còn thấp thì làm người Hiền, như bốn quả  Tu Đà Hoàn v.v... tỏ đặng cao thì làm bực Thánh, như Bồ Tát, Phật. Bởi vậy nên mới nói là "hơn kém" đó chăng?

Nhan Bính giải: Phật hỏi ông Tu Bồ Đề: "Như Lai đặng  Vô thượng Chánh giác  chăng! Như Lai có chỗ chi thuyết pháp chăng?".

Đáp: Như tôi rõ đặng cái nghĩa lý của Phật, đều không có pháp chi nhứt định là Vô thượng Chánh giác  và thuyết pháp cả - Bởi sao vậy? Là bởi chỗ thuyết pháp của Như Lai như người uống nước, lạnh ấm tự mình biết lấy.

Bất khả thủ, bất khả thuyết phi pháp phi phi pháp : Pháp thuộc về có, phi pháp  thuộc về không. Chấp có thì trước tướng, chấp không lại lạc vào không. Cho nên nói: "Chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp".

là dùng, vô vi  là tự nhiên giác tánh, không mượn ai làm nên cả thảy Hiền Thánh đều dùng phép  vô vi  ấy. Nhưng mà pháp vốn là  vô vi, bởi hiểu có cao thấp mới sanh ra hơn kém chớ đáo đầu thì cũng có một mà thôi.

Lý Văn Hội giải: Pháp tánh vô vi  vốn không có tướng nhứt định là cao thấp đặng, bằng có nhứt định hẳn không hơn kém. Hữu si biệt  là  căn khí có mau chậm, tài học có thấp cao, cho nên nói: "hơn kém". Mà đã có hơn kém thì không có tướng nhứt định.

Hải Giác Nguyện Thiền Sư 

Tụng:

Chế nhiều đồ khéo quí,

Bởi thợ hay dùng trí.

Hà tất chốn Tỳ va, ([104])

Người người rằng bất nhị. ([105])

 

 

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

Pháp, nhơn đều gọi chấp, Tỏ thấu thảy vô vi.

Bồ Tát đặng tề chứng , Thanh Văn khỏi nhứt phi.

Bằng tham sân dứt hết, Thì thiệt tướng còn chi.

Quán ấy mà thường dụng, Hẳn thành Phật chẳng nghi.

 

Xuyên Thiền sư giải: Sai thù chừng một mảy, trời đất cách xa nhau.

Tụng:

 

Người chánh nói pháp tà,

Phép tà trở lại chánh.

Người tà nói pháp chánh,

Phép chánh thảy đều tà.

Quít Giang Nam chỉ miền Giang Bắc,

Bởn tớn chào xuân nẩy nở hoa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10358)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12248)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15402)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16682)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12305)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11577)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14350)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24712)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10745)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12556)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10464)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12411)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11711)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12103)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13073)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11505)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17521)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21544)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10733)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19350)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12482)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26172)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14468)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13786)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16926)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17708)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13228)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12594)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11681)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11694)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20586)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19133)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19667)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18785)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15144)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15114)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14045)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15581)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14611)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15921)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12952)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18526)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15841)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11132)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53783)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13049)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16669)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15510)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20032)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15625)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15460)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15249)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10472)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20459)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15604)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13122)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20336)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13350)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29093)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11773)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant