Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bát Nhã Quán Chiếu

03 Tháng Sáu 201511:00(Xem: 6769)
Bát Nhã Quán Chiếu

BÁT NHÃ QUÁN CHIẾU

Nguyễn Thế Đăng

Bat Nha Quan Chieu


Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng. Bát-nhã văn tự là sự nghiên cứu ở cấp độ ý thức những bản văn của hệ thống Kinh Bát-nhã. Sự nghiên cứu này chưa đủ để đi vào Bát-nhã, phải thực hành Bát-nhã. Bát-nhã quán chiếu là sự thực hành Bát-nhã để đạt đến thật tướng của Bát-nhã, tức là tánh Không.

Chân lý, hay thực tại, đối với người Hy Lạp cổ là aletheia, lột bỏ sự che đậy, vén màn. Nhưng chân lý hay thực tại thì không tự che đậy, không phủ màn. Sơ tổ Vô Ngôn Thông đã nói về chân lý hay thực tại: “Không từng che dấu”, và “Khắp tất cả chỗ”. Thế thì sự che đậy, phủ màn này là do chúng ta. Chính chúng ta tự bịt mắt mình bằng những lớp màn chấp ngã chấp pháp để cái thấy về thực tại bị khúc xạ, méo mó, phân mảnh.

Sự quán chiếu của Bát-nhã là để lột bỏ những tấm màn ấy, đang ngăn che chúng ta với thực tại của mọi sự vật là tánh Không, bởi vì sự vật thì từ vô thủy đến vô chung vẫn chính là tánh Không: “Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc”. Sự vật vẫn bình thườngtánh Không như vậy. Nhưng chính sự bất bình thường của tâm, chính những bệnh tật trong tâm của chúng ta khiến cho chúng ta thấy sắc chẳng phải là Không, Không chẳng phải là sắc. Vậy thì Bát-nhã quán chiếu là chỉnh sửa lại cái thấy cho đúng, thấy không điên đảo méo mó. Cái thấy đúng (chánh kiến) này giải thoát chúng ta khỏi những bất bình thường, những bệnh tật thấy biết sai lầm của chúng ta, cũng những thứ này nuôi dưỡng cho thế giới khổ đau sanh tử của chúng ta.

Dùng thuật ngữ hiện đại thì Bát-nhã quán chiếu là giải cấu trúc, giải kiến lập (déconstruire) hệ thống những mê lầm vô minh của chúng ta.

Tác phẩm Trung Đạo luận hay Trung luận của Bồ-tát Long Thọ là một luận giải về tánh Không. Nhưng thật ra, 27 phẩm của cuốn luận là 27 pháp quán để thấy ra tánh Không: quán nhân duyên, quán sự đến đi, quán sáu giác quan, quán năm ấm, quán sự nhiễm ô và người nhiễm ô, cho đến quán có không, quán Niết-bàn, quán 12 nhân duyên… Những chữ “quán” này ngài Cưu-ma-la-thập phần nhiều dịch thành chữ “phá”: phá nhân duyên, phá sự đến đi, phá sáu giác quan… Quán các tướng là để phá các tướng do vọng chấp phân biệt tạo thành. Khi các giả tướng tiêu trừ đến đâu thì thật tướng tánh Không hiện ra đến đó.

Kinh Đại Bát-nhã có rất nhiều pháp quán chiếu, đủ mọi góc cạnh, đủ mọi phương diện, đủ mọi đối tượng, cho đủ mọi khuynh hướng cá nhân. Ở đây chúng ta chỉ trích ra vài pháp quán trong phẩm Vô Sanh thứ 26, để thấy con đường Văn, Tư, Tu của Bát-nhã, để nghiên cứu, tư duythực hành Bát-nhã hầu thể nhập tánh Không.

Tánh Không này là Nền tảng của mọi bậc thánh Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật. Tánh Không là Nền tảng của mọi tông phái Phật giáo. Phẩm Vô Sanh nói:

“Bát-nhã ba-la-mật hay sanh và dung chứa tất cả pháp lành của Thanh văn, Độc giác Phật, Bồ-tát và Phật”.

Phẩm Vô Sanh bắt đầu từ những câu hỏi căn bản của ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề trước sự hiện diện của Đức Phật:

“Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật quán các pháp. Những gì là Bồ-tát? Những gì là Bát-nhã ba-la-mật? Những gì là quán?

Ngài Tu-bồ-đề nói: Vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác mà phát đại tâm, người này gọi là Bồ-tát. Người này cũng biết tất cả tướng tất cả pháp mà chẳng bám nắm, biết tướng của sắc cho đến biết tướng của các pháp bất cọng nhưng cũng chẳng bám nắm”.

Phát Bồ-đề tâm, muốn đạt đến tánh Không để cứu độ chúng sanhcon đường Bồ-tát. Bồ-đề tâm gồm đủ cả giới và hạnh của Bồ-tát, gồm cả bi và trí. Tất cả giới hạnh ấy phải được tiến hành trong sự không bám nắm, nghĩa là trong sự tương ưng với tánh Không. Bồ-đề tâm tương đối do có phát nguyện, có thực hành này dần dần thể nhập vào Bồ-đề tâm tuyệt đối, tức là tánh Không.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Những gì là tất cả tướng, tất cả pháp?

Ngài Tu-bồ-đề nói: Nếu dùng danh tự và các nhân duyên hòa hợp để biết các pháp, đây là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi. Dùng danh tự ngôn ngữ để biết các pháp thì gọi là biết tướng của pháp.

Như lời ngài Xá-lợi-phất hỏi những gì là Bát-nhã ba-la-mật? Vì viễn ly nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Những gì là viễn ly? Viễn ly ấm, giới, nhập. Viễn ly ba-la-mật. Viễn ly Không. Do đây nên viễn ly gọi là Bát-nhã ba-la-mật”.

Các pháp là do danh tự và những nhân duyên hòa hợp mà có. Không có danh thì không có sự gọi tên phân biệt sự vật này với sự vật khác. Không có những nhân duyên hòa hợp thì cũng không có tướng của sự vật. Tướng do những nhân duyên sanh và những nhân duyên diệt nên tướng không có tự thể, tướng khôngtự tánh. Quán thấy các pháp chỉdanh tướng, duyên sanh nên vô tự tánh, như vậy là quán tánh Không của tất cả các pháp. Bát-nhã quán chiếu hay Trí huệ quán chiếu là nhìn thấy thật tướng của tất cả các pháp, thật tướng đó là tánh Không. Như vậy tánh Khôngsự giải thoát cho tất cả mọi tướng, nghĩa là giải thoát cho sanh tử.

Bắt đầu thấy tánh Không là bắt đầu viễn ly (xa lìa). Các tướng tiêu dung đến đâu, tánh Không hiện ra đến đâu thì viễn ly rộng ra đến đó. Viễn ly này là tự động vì tướng không có thật thì bám nắm cái gì? Mọi pháp có đó, nhưng không cứng đặc, không cốt lõi, không hình tướng, không có thật, như cầu vồng, như dợn nắng mà tưởng là nước, như mắt nhặm thấy tóc rủ hay con ruồi trước mặt, như thấy hoa đốm giữa không trung…

Sự viễn ly này không chỉ áp dụng cho đối tượng cần viễn ly, mà cho cả chủ thể đang sử dụng những phương tiện để viễn ly: “Viễn ly ba-la-mật. Viễn ly Không. Lại viễn ly bốn niệm xứ đến viễn ly mười tám pháp bất cọng, viễn ly Nhất thiết trí. Do đây nên viễn ly gọi là Bát-nhã ba-la-mật”.

“Những gì là Quán? Lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật, đại Bồ-tát quán sắc chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chẳng phải vui chẳng phải khổ, chẳng phải ngã chẳng phải vô ngã, chẳng phải không chẳng phải chẳng không, chẳng phải tướng chẳng phải vô tướng, chẳng phải tác chẳng phải vô tác, chẳng phải tịch diệt chẳng phải chẳng tịch diệt, chẳng phải ly chẳng phải chẳng ly. Thọ tưởng hành thức, các ba-la-mật… cho đến Nhất thiết chủng trí cũng như vậy. Đây gọi là đại Bồ-tát quán các pháp khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Quán là phá các tướng do bám nắm phân biệt mà có. Quán là phá các giả tướng để đưa chúng trở về thật tướng của chúng là tánh Không. Các tướng không còn che đậy thì thực tại tánh Không và cũng là thực tại tối hậu hiện ra: “Thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai” (Kinh Kim Cương).

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Do nhân duyên gì mà sắc chẳng sanh là chẳng phải sắc, cho đến Nhất thiết chủng trí chẳng sanh là chẳng phải Nhất thiết chủng trí?

Ngài Tu-bồ-đề nói: Sắc và sắc tướng rỗng không. Trong sắc rỗng không ấy không có sắc cũng không có sanh, cho đến Nhất thiết chủng trí cũng như vậy. Do đây nên sắc chẳng sanh là chẳng phải sắc, cho đến Nhất thiết chủng trí chẳng sanh là chẳng phải Nhất thiết chủng trí”.

Sắc thọ tưởng hành thức cho đến Nhất thiết chủng trí là rỗng không; rỗng không nên không có chỗ sanh ra. Sắc cho đến Nhất thiết chủng trí đã chẳng sanh nên chúng không phải là sắc cho đến Nhất thiết chủng trí. Chẳng sanh thì không có gì để gọi là sắc cho đến Nhất thiết chủng trí.

Chữ “chẳng phải” ở đây đồng nghĩa với chữ “chẳng phải” trong câu kinh Kim Cương đã trích dẫn ở trên.

Quán sắc chẳng sanh, mà vốn đã chẳng sanh nên chẳng phải sắc, đó là quán chiếu của Bát-nhã ba-la-mật.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Do nhân duyên gì mà nói rằng sắc chẳng hai là chẳng phải sắc, cho đến Nhất thiết chủng trí chẳng hai là chẳng phải Nhất thiết chủng trí?

Ngài Tu-bồ-đề nói: Có sắc là có chẳng hai, cho đếnNhất thiết chủng trí là có chẳng hai. Tất cả những pháp này chẳng hợp chẳng tan, không sắc, không hình, không đối, một tướng, tức là không có tướng. Do đây nên sắc chẳng hai là chẳng phải sắc, cho đến Nhất thiết chủng trí chẳng hai là chẳng phải Nhất thiết chủng trí”.

Sắc là chẳng hai, là vô tướng. Đã chẳng hai, vô tướng thì đó chẳng phải là sắc.

“Ngài Tu-bồ-đề nói: Sắc chẳng khác vô sanh, vô sanh chẳng khác sắc. Sắc tức là vô sanh, vô sanh tức là sắc. Do đây nên sắc ở trong không có hai. Cho đến Nhất thiết chủng trí cũng như vậy”.

Sắc là vô sanh cho đến tất cả các pháp là vô sanh. Đây là cái thấy giải thoát của Bát-nhã.

“Bấy giờ ngài Tu-bồ-đề bạch với Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật mà quán các pháp như vậy thì thấy sắc là vô sanh, vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Thấy thọ tưởng hành thức vô sanh, vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Cho đến thấy Phật và Phật pháp vô sanhrốt ráo thanh tịnh vậy”.

Vì tất cả các pháp là vô sanh cho nên tất cả đều rốt ráo thanh tịnh, nghĩa là chưa từng bị nhiễm ô bởi sanh tử. Tại sao chưa từng bị nhiễm ô bởi sanh tử? Bởi vì trong Bát-nhã quán chiếu thì sanh tửvô sanh, chưa từng sanh ra nên chẳng có sự nhiễm ô và cái gì bị nhiễm ô cả.

“Ngài Tu-bồ-đề nói với ngài Xá-lợi-phất: Tôi chẳng nghĩ pháp vô sanh có sở đắc. Tôi cũng chẳng nghĩ trong pháp vô sanh có được quả Tu-đà-hoàn, cho đến có được quả Độc giác Phật. Tôi cũng chẳng cho rằng trong pháp vô sanh có Bồ-tát làm việc khó làm là chịu khổ cho chúng sanh, Bồ-tát cũng chẳng dùng tâm khó làm để hành đạo. Tại sao vậy? Vì nếu sanh tâm khó tâm khổ thì chẳng có thể lợi ích cho vô lượng vô số chúng sanh.

Này ngài Xá-lợi-phất! Ở đây Bồ-tát thương xót chúng sanh. Với chúng sanh, Bồ-tát tưởng như cha mẹ anh em con cháu, cũng tưởng như thân mình. Thế nên Bồ-tát có thể lợi ích vô lượng vô số chúng sanh, vì chỗ dụng vô sở đắc vậy.

Bồ-tát nên sanh tâm như thế này: Như ngã là bất khả đắc, nơi tất cả chỗ, tất cả nội pháp ngoại pháp cũng đều bất khả đắc. Nếu sanh tâm như thế thì Bồ-tát không có tâm khó tâm khổ. Vì sao thế? Vì Bồ-tát này nơi tất cả chỗ, tất cả pháp đều chẳng lãnh thọ”.

Vì tất cả đều ở trong thật tướng vô sanh nên sự chứng đắc của các bậc thánh và sự khổ đau của chúng sanh đều vô sở đắc. Tánh Không có thể hòa giải và hợp nhất hai điều đối nghịch: Sự tự giải thoát cho mình (Trí huệ) và làm việc cho sự giải thoát của người khác (Đại bi).

“Ngài Tu-bồ-đề nói: Đúng như vậy. Theo danh tự thế gian nên có trí, có đắc. Sáu loài sai khác cũng do danh tự thế gian mà có, chẳng phải đệ nhất nghĩa đế.

Vì sao thế? Vì trong Đệ nhất nghĩa đế (tánh Không) không có nghiệp, không có báo, không có sanh không có diệt, không có tịnh không có cấu”.

Nghiệp và nghiệp báo có ra là do tâm phân biệt dựa trên danh tướng hư vọng, từ ý nghiệp này sanh ra khẩu nghiệpthân nghiệp. Khi tâm và danh tướng đều Không, tâm và cảnh đều Không, thì nghiệp và báo cũng không còn chỗ để mọc mầm, thành cây, ra quả. Ba nghiệp chấm dứt thì sanh tử chấm dứt vậy.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi tiếp: Pháp chẳng sanh sanh chăng? Pháp sanh sanh chăng?

Ngài Tu-bồ-đề nói: Tôi chẳng cho rằng pháp chẳng sanh có sanh, cũng chẳng cho rằng pháp sanh có sanh.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Pháp chẳng sanh nào không cho là có sanh?

Ngài Tu-bồ-đề nói: Sắc là pháp chẳng sanh, tự tánh nó rỗng không chẳng cho là có sanh. Cho đến Vô thượng Bồ-đề là pháp chẳng sanh, tự tánh nó rỗng không chẳng cho là có sanh”.

‘Cái chẳng sanh cũng chẳng sanh’, đây là một trong những Văn tự Bát-nhã rốt ráo, Quán chiếu Bát-nhã rốt ráoThật tướng Bát-nhã rốt ráo.

Kinh tiếp tục những đoạn về Bát-nhã quán chiếu:

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Thế nào là các pháp không có chỗ y tựa?

Ngài Tu-bồ-đề nói: Tánh sắc thường Không, chẳng y tựa trong, chẳng y tựa ngoài, chẳng y tựa trung gian. Cho đến tánh Nhất thiết trí thường Không, chẳng y tựa trong, chẳng y tựa ngoài, chẳng y tựa trung gian. Do đây nên tất cả pháp không chỗ y tựa, vì tánh thường Không vậy”.

Với sự quán sát liên tụctinh tế các pháp thường Không, không có chỗ y tựa, danh tướng của chúng mờ nhạt dần nhường cho tánh Không hiển lộ. Khi những tấm màn che của phiền não chướngsở tri chướng đã bị loại bỏ một phần nào, người ta thấy trực tiếp tánh Không, tức là Đệ nhất nghĩa đế. Thấy trực tiếp, dù còn chưa thật rõ, nghĩa là từ đây người ta không bao giờ mất Nó nữa, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời gian nào, không gian nào. Dùng chữ của kinh Pháp Hoa, đây gọi là Ngộ. Dùng chữ của Thiền tông gọi là thấy Tánh. Rồi tiếp tục đi sâu vào và sống trong tánh Không, thấm nhuần một cách trọn vẹn, đây là Nhập. Đến lúc chỉ còn là sự thanh tịnh tuyệt đối, vì không còn manh mún nào của phiền nãodanh tướng của sanh tử.

Chúng ta trích một đoạn về Bố thí ba-la-mật:

“Này ngài Xá-lợi-phất! Thế nào là sự Bố thí ba-la-mật xuất thế gian? Chính là ba phần thanh tịnh vậy. Những gì là ba? Lúc bố thí, đại Bồ-tát chẳng thấy có mình, chẳng thấy có người nhận, chẳng thấy có vật bố thí, cũng chẳng trông mong báo đáp. Đây gọi là đại Bồ-tát bố thí ba-la-mật ba phần thanh tịnh.

Lại lúc bố thí, đại Bồ-tát bố thí cho chúng sanh mà không thấy có chúng sanh, đem sự bố thí này hồi hướng vô thượng bồ-đề, thậm chí không thấy có tướng pháp vi tế nào”.

Bố thí mà an trụ trong tánh Không thì càng bố thí người ta càng thâm nhập tánh Không. Bố thíviệc làm phước đức. Không thấy có ba phần nên ba phần thanh tịnhtrí huệ quán chiếu tánh Không. Cả hai, phước đứctrí huệ, được hợp nhất trong cùng một quá trình. Nói cách khác, đây là sự hợp nhất của Phương tiệnTrí huệ.

Phần cuối của phẩm Vô Sanh, chữ “niệm đại bi” được nhắc tới ba lần.

“Người thực hành Bồ-tát đạo vì cứu tất cả chúng sanh nên tâm chẳng rời bỏ tất cả chúng sanh, bởi vì chúng sanh vô sở đắc vậy.

Bồ-tát phải thường chẳng rời niệm này: chính là đại bi niệm”.

Chỉ có trong Bát-nhã ba-la-mật mới hợp nhất được hai thực tại, mà với thế gianmâu thuẫn với nhau, thành một. Đó là tánh Không vô sở đắcđại bi chẳng rời bỏ chúng sanh.

“Ngài Tu-bồ-đề nói: Vì chúng sanh không có nên niệm cũng không. Vì chúng sanh tánh Không nên tánh niệm cũng Không. Vì pháp chúng sanh không có nên pháp niệm cũng không. Vì chúng sanh ly nên niệm cũng ly. Vì chúng sanh rỗng không nên niệm cũng rỗng không.

Này ngài Xá-lợi-phất! Vì sắc không có nên niệm cũng không. Vì tánh sắc không có nên tánh niệm cũng không. Vì pháp sắc không có nên pháp niệm cũng không. Vì sắc ly nên niệm cũng ly. Vì sắc rỗng không nên niệm cũng rỗng không. Cho đến Vô thượng bồ-đề cũng như vậy.

Này ngài Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát thực hành Bồ-tát đạo, tôi mong muốn vị ấy chẳng rời niệm này: chính là đại bi niệm”.

Sự thấu đạt tánh Không là Trí. Sự không bỏ chúng sanh là Bi. Trí và Bi phải có từ bắt đầu con đường, khi phát Bồ-đề tâm. Bồ-đề tâm này là tương đối vì có sanh khởi, tác ý phát nguyện, nhưng cũng gồm đủ sự song hành của sơ trí và sơ bi. Cho đến khi đạt đến Bồ-đề tâm tuyệt đối (tức là tâm của các bậc giác ngộ) thì Trí viên mãn và Bi viên mãn hợp nhất trong Bồ-đề tâm tuyệt đối này.

Chính nhờ tánh Không mà Bi mới trở thành Đại. Nhờ tánh Không mà lòng bi mới mở rộng vô biên thành đại bi. Nhờ tánh không vô tự tánhvô ngại mà có sự hợp nhất trọn vẹn của Trí và Bi. Một bậc giác ngộ thì có đủ ba thân hợp nhất: Pháp thânĐại Trí, Báo thânHóa thânĐại Bi.

Phẩm này kết thúc bằng đoạn kinh:

“Bấy giờ Đức Phật khen ngợi: Lành thay, lành thay! Đây chính là Bát-nhã ba-la-mật của đại Bồ-tát. Vị nào muốn nói thì phải nói như vậy. Tu-bồ-đề nói về Bát-nhã ba-la-mật đều là tuân thừa ý của Phật. Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật phải học như lời tôn giả Tu-bồ-đề nói.

Lúc ngài Tu-bồ-đề nói phẩm Bát-nhã ba-la-mật, cõi đại thiên chấn động sáu cách.

Bấy giờ Đức Phật mỉm cười.

Ngài Tu-bồ-đề bạch hỏi nguyên do.

Đức Phật nói: Này Tu-bồ-đề! Như ta nói Bát-nhã ba-la-mật tại quốc độ này, chư Phật ở trong vô số vô lượng quốc độ trong mười phương cũng nói Bát-nhã ba-la-mật như vậy.

Lúc Đức Phật nói phẩm Bát-nhã ba-la-mật, có mười hai na-do-tha người và trời được Vô sanh pháp nhẫn. Lúc chư Phật mười phương nói Bát-nhã ba-la-mật cũng có vô lượng vô số chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ-đề”.

Con đường Bồ-tát, con đường hợp nhất của Trí và Bi, là con đường thực hành Bát-nhã ba-la-mật. Đây là con đường chung và phổ quát cho mọi thế giới, mọi cõi để đến giải thoátgiác ngộ.

Văn Hóa Phật Giáo số 166
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16539)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12030)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12205)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12879)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12847)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10342)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14089)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10299)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13795)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16365)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12082)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13073)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11744)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12761)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10913)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11083)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11030)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11980)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12893)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11174)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12703)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11445)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12623)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14195)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10943)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10613)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11299)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12094)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13245)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12454)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15453)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14422)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12213)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15503)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12095)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12494)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11289)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12169)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10702)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12627)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13270)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14977)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12792)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16677)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19776)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12369)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13633)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12044)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11731)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12857)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14633)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12711)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15770)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13726)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 13007)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18123)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11262)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12283)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13148)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10385)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant