Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

03 Tựa Tông Chỉ Đề Cương Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6727)
03 Tựa Tông Chỉ Đề Cương Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Tựa Tông Chỉ Đề Cương Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Ở trên là Lời dẫn tựa, đến đây là Tựa. Sách chữ Hán hồi xưa nhiều lời như thế.

CHÁNH VĂN

Một lúc nọ, nhân khi du hóa đặt bước đến Liêm Khê, mừng rỡ gặp được thiền sư Thanh Đàm, cùng nhau luận bàn vui vẻ. Thiền sư bảo: “Vừa mới biên tập đề cương kinh Diệu Pháp chưa được phân nửa. Hồi hôm nằm mộng thấy đức Bổn Sư dường như về ấn thọ cho, lại thấy rõ trên nửa tòa có đức Đa Bảo. Nay tôn giả vừa đến đây, là ý Phật khiến cho Ngài đến chứng minh đó vậy”.

Lúc đó, Thanh Nguyên tôi nửa mừng nửa sợ cầm bản thảo nhuận sắc vừa biên xong, mới rõ tạng tánh, hồ tâm Như Lai chói suốt. Tôi xin thành thật viết bài tựa này để chứng minh.

Kệ rằng:

Đề cương kinh báu Diệu Liên Hoa,

Chỉ bảo cho ta ngọc Biện Hòa,

Hai mươi tám phẩm từ biển giác,

Đại thiên sa giới hội tâm cơ.

Hòa thượng Năng Nhân thầm thọ ký,

Như Lai Đa Bảo kín hộ gia,

Khiến rõ tâm ta đâu tá sứ,

Ngợi khen Diệu Pháp lẫn Liên Hoa

GIẢNG

Lời tựa này do ngài Thanh Nguyên hiệu Minh Nam, là huynh đệ của thiền sư Minh Chánh viết. Ngài Thanh Nguyên nói, trên đường du hóa ghé đến Liêm Khê tức Bích Động, chỗ ngài Minh Chánh trụ trì. Ngài Minh Chánh mới đem đề cương kinh Pháp Hoa này ra giới thiệucho biết vừa rồi có điềm mộng báo trước. Hôm nay ngài Minh Nam đến, thật là duyên đặc biệt nên thỉnh ngài Minh Nam chứng minh.

Ngài Minh Nam rất vui mừng cũng rất e dè, khi cầm bản thảo nhuận sắc vừa biên xong. Ngài xem qua, càng tỏ rõ tạng tánh tâm thể của mình cùng với tâm thể chư Phật, chư Bồ-tát trong mười phương đều chói suốt lẫn nhau. Ngài nói bài kệ:

Đề cương kinh báu Diệu Liên Hoa,

Chỉ bảo cho ta ngọc Biện Hòa,

Hai mươi tám phẩm từ biển giác,

Đại thiên sa giới hội tâm cơ.

Hòa thượng Năng Nhân thầm thọ ký,

Như Lai Đa Bảo kín hộ gia,

Khiến rõ tâm ta đâu tá sứ,

Ngợi khen Diệu Pháp lẫn Liên Hoa

Ngài tán dương kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà cũng tán dương người đã nhận ra tâm thể của mình. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa chỉ cho tâm thể đó. Người nhận và hằng sống được với tâm thể đó thường ở trong trí tuệ rỗng rang sáng suốt.

CHÁNH VĂN

Trộm nghe: kinh Pháp Hoa là một đại sự của chư Phật, là yếu môn của Bồ-tát, là chân như bình đẳng của Như Lai, vì thương chúng sanhkhai thị ngộ nhập. Thường khi chư Phật diễn nói chẳng cần truyền trước. Hằng ngày chúng sanh tu trì sẽ được thọ ký quả đương lai.

Diệu Pháphuyền vi khó vạch bày mà lại cao lớn vòi vọi. Liên Hoa là bông sen chẳng nhiễm bùn nhơ mà hương thơm ngào ngạt. Rộng lớn bao trùm pháp giới, cõi nước của đức Như Lai nhiều như số bụi nhỏ cũng không bỏ sót, tròn sáng soi khắp hằng sa, Bát-nhã, Bồ-đề thảy đều đầy đủ. Chư Tổ tha thiết nghĩ đến chúng sanh, mới dùng văn cú, ngữ ngôn để mở bày, chẳng khác nào mò châu đáy biển, tìm ngọc non cao.

Đến như ngài sa-môn Thanh Đàm có duyên tam học từ đời trước, ngày nay may mắn gặp được chánh tông. Ngài noi theo phong cách tuyệt vời của cửa động đỉnh giác, nếm pháp vị sâu mầu của Tổ Đạo Nguyên. Vào năm Đinh Mão, Ngài theo Tổ sưNguyệt Quang thiền tự, trong lòng mừng vui cung kính tưởng như khó gặp mà gặp được một vị Phật sống như thế, thật là cởi mở tấc lòng. Giữa một buổi trưa mặt nhật rỡ ràng, Ngài bèn sửa sang y phục, hình sắc nghiêm trang, trải tọa cụ trước Tổ, quỳ gối chắp tay bạch cùng Tổ sư Đạo Nguyên rằng:

- Tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chặng giữa. Vậy rốt ráo tâm ở chỗ nào?

Tổ sư mỉm cười xoa đầu Ngài, liền chỉ bày tâm ấn và nói kệ rằng:

用,

機, 

 

外。 

Âm:

Tùy thời ứng dụng,

Ngộ vật kiến cơ,

Tánh bổn như như,

Hà quan nội ngoại.

Dịch:

Theo thời ứng dụng,

Gặp vật thấy cơ,

Tánh vốn như như,

Trong ngoài nào mắc?

GIẢNG

Ngài Minh Nam kể sơ lược quá trình học đạo của ngài Minh Chánh. Có duyên tam học từ nhiều đời trước, gặp được chánh tông. Nhờ vậy ngài Minh Chánh phát huy được những điểm đặc biệt riêng. Sau ngài theo tổ Đạo NguyênNguyệt Quang thiền tự thuộc vùng Hải Phòng. Trong lòng mừng vui kính tưởng, cho đến một hôm đắp y nghiêm chỉnh đảnh lễ Tổ, thưa hỏi:

- Tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chặïng giữa. Thì rốt ráo tâm ở chỗ nào?

Tổ sư mỉm cười xoa đầu ngài, chỉ tâm ấn bài kệ đại ý nói: Tâm tùy thời ứng dụng, không có chỗ nơi. Từ dụng bên ngoài ta nhận được tâm. Tánh thì như như, không pháp trần nào có thể làm gì nó. Nghĩa là nó không vướng mắc bởi bất cứ pháp trần nào. Ai nhận được và sống được với tâm mình thì tùy thời tùy cảnh ứng dụng tự tại, không bị vướng mắc bởi bất cứ hiện tượng nào bên ngoài. Đoạn ấn chứng này nói tâm thể luôn ứng vật tùy cơ, nếu thật sự ta nhận và sống được với nó. Tóm lại, người nhận được Phật tri kiến của mình thì đối duyên xúc cảnh tự tại giải thoát, đối duyên xúc cảnh như như bất động. Sau khi được Tổ chỉ như thế, ngài nắm được chìa khóa rồi nên rất vui mừng.

CHÁNH VĂN

Lúc ấy, ngài Thanh Đàm vui mừng lễ bái đảnh thọ ân cần, hoát nhiên nắm được chìa khoá chẳng còn ngại cửa đóng. Từ đó Ngài chuyên tinh nghiên cứu tam tạng, tỏ thấu nhất thừa. Phàm các kinh Diệu Pháp, Lăng Nghiêm nếu có chỗ nào nghi ngờ liền đem thưa hỏi. Đến năm Canh Ngọ, Ngài đăng đàn thọ giới Cụ Túc, từng gõ cửa Tổ sư để được kiến tánh. Tổ sư lại có mật ấn nói bài kệ:

道佛,

言僊,

肥壯,

寸田

Âm:

Quang phóng mi gian vô đạo Phật,

Vân sinh túc hạ vị ngôn Tiên, 

Nhiêu quân bảo dưỡng ngưu phì tráng,

Triêu tịch thục canh bỉ thốn điền.

Dịch:

Chặng mày phóng quang đừng nói Phật,

Gót chân mây phủ chớ bảo Tiên,

Ngươi nên nuôi dưỡng trâu cường tráng.

Hôm sớm quen cày tấc ruộng kia.

Ngài Thanh Đàm từ đó càng thêm tinh tấn, tay không rời quyển kinh. Trải qua từ năm Đinh Tỵ đến Đinh Mão, Ngài chống tích đến Liêm Khê tư duy bí tạng của Cổ Phật, không tiếc rẻ với chúng sanh mà muốn cho tất cả đồng được vào tri kiến, nên nói: “Tôi dù được chút ít đâu nên sẻn tiếc ư?”

Đề Cương kinh Diệu Pháp này nếu có chút công đức lành nào, chẳng dám dành riêng phần mình mà muốn cho Liên Hoa đồng mọc ở đầm trong, chẳng tìm cầu bên ngoài mà khiến Diệu Pháp sẵn chứa nơi tấc đất. Trông mong hàng thanh chúng đầy đủ mắt chân chánh. Như trong đây lý sự đi đôi thì xin tất cả được Như Lai thọ ký.

Đốt hương kính cẩn viết lời tựa này.

Kệ rằng:

Bích Động Thanh Đàm sen ngát hương,

Diệu Hoa trỏ thẳng pháp đề cương,

Nhất thừa Minh Chánh liền khai thị,

Tam yếu đạo trung rộng xiển dương,

Muôn phương tỏ ngộ tâm viên tịnh,

Tất cả vào sâu lý viễn trường,

Thanh tịnh liên hoa ngời pháp giới,

Tỳ-lô tạng hải diễn chân thường.

Hoàng triều Gia Long, ngày lành tháng 8, năm thứ 18 (1820) 

Sa-Môn Thanh Nguyên,

Thiền sư Viên Giác Bổn

Minh Nam soạn

GIẢNG

Lời này của ngài Viên Giác Bổn, là sư huynh ngài Minh Chánh Thanh Đàm. Khi ngài đến chỗ ngài Minh Chánh ở Liêm Khê, ngài Minh Chánh đưa đề cương mới vừa làm xong và kể những thuỵ ứng cho ngài nghe, rồi thỉnh ngài Minh Nam chứng minh. Do đó mới có lời tựa này. 

Từ khi được sự ấn thọ của Tổ sư ở chùa Nguyệt Quang, ngài càng thêm tinh tấn. Đối với kinh Pháp Hoa để tâm nghiên tầm đặc biệt hơn nữa. Trải qua bốn mươi tám năm, ngài luôn quan tâm trì niệm kinh Pháp Hoa, mới làm nên bản đề cương này. 

Chúng ta thấy, so với những bản sớ giải của chư vị tổ ở Trung Hoa thì bản đề cương này chẳng có bao nhiêu. Nhưng chỗ độc đáo, xuất sắc của bản đề cương này là nói lên được tinh tủy của bản kinh Pháp Hoa qua kinh nghiệm nghiên tầm và tu trì của một thiền sư Việt Nam, rất đáng cho chúng ta tự hào. Người ta cứ nghĩ chỉ có người sinh ra ở những nước lớn như Trung Quốc mới có thể sớ giải các bản kinh lớn như vầy, còn chúng ta sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn, ở một đất nước nhược tiểu không thể làm được. Điều này không đúng. Đây là điểm tôi nhận được và rất tự tin về khả năng tu tập của tất cả mọi chúng sanh, trong đó có chúng ta

Hòa thượng Ân sư cũng chỉ bày chỗ này, mà từ lâu nay người Việt Nam ta có mặc cảm tự ty rằng mình không làm nổi những việc như thế. Khi đọc quyển đề cương này, chúng ta thấy rõ ràng người Việt Nam, so với dân tộc Trung Hoa mình ở vùng biên thùy, nhưng đã có một trình độ thâm hiểu và ứng dụng Phật pháp thật siêu xuất, không kém bất cứ ai. Người Trung Hoa xem bốn vùng xung quanh xứ sở họ là những loại man di mọi rợ, nên đã gán những cái tên như Đông di (東夷), Tây khương (西羌), Nam man (南蠻), Bắc địch (北狄). Chỉ có Trung Quốcvăn minh, văn hóa - Trung Nguyên Hoa Hạ (中原華夏) tức là vùng trung tâm của văn minh nhân loại, là tinh hoa ở giữa, ngoài ra là mán mọi. Nhưng rõ ràng sự xuất hiện những tác phẩm của chư thiền sư Việt Nam đã nói lên quan điểm ấy của người Trung Hoa còn rất hạn chế. Thực tế không phải như họ nghĩ.

Thiền sư Minh Chánh đã bỏ ra gần hết cuộc đời mình để nghiên tầm và viết nên bản Đề Cương này, bây giờ chúng ta học và muốn nhận hiểu được tới nơi bản ý của kinh phải mất thời gian bao lâu? Không thể mười lăm hai chục phút, phải không? Học để ngộ nhập Phật tri kiến, để nhận được yếu chỉ kinh Pháp Hoa, thì chắc rằng không thể với thời gian ít ỏi của những buổi chiều tại Pháp đường như vầy. Chúng ta phải dùng tất cả thời gian của cuộc đời mình để học tập, chiêm nghiệmhành trì như chư Tổ, mai ra mới có chút tương ưng vậy. 

Kinh Pháp Hoa dẫn đầu là lời của Phật nói, sở dĩ đức Phật ra đời vì muốn chỉ bày cho chúng sanh biết mỗi người đều có tri kiến Phật. Thượng nhân Minh Chánh để tâm đến kinh Pháp Hoa, làm đề cương này cũng nhằm thu gọn cái mênh mông kia về một cốt lõi, tựu trung muốn giúp cho người học Phật đời sau nhận ra yếu chỉ. Từ đề cương này biết được việc chính của mình, hằng sống với diệu lý kinh Pháp Hoa.

Chúng ta tuy biết mỗi người đều có sẵn tri kiến Phật, nhưng muốn nhận được, sống được với nó phải làm sao? Đó là một vấn đề. Có nhiều cách để nhận và sống với tánh giác của mình, tùy căn cơ nghiệp tập từng người. Phần lý giải chúng ta đả thông được, nhưng phần công phu mỗi người phải tự nỗ lực theo cơ duyên của mình. Nếu không nhận ra, không sống được với tánh giác là chúng ta bị kinh Pháp Hoa chuyển, không chuyển được kinh Pháp Hoa. Tọa thiền lắng sạch mọi vọng tưởng, tâm được định, từ đó phát sanh trí tuệ, nhận ra tri kiến Phật. Cho nên tu thiền là một trong những phương pháp ưu việt để đi đến giác ngộ giải thoát, mãi mãi an vui, sống với ông Phật sẵn nơi mình. 

Chúng ta học thuộc bao nhiêu kinh điển mà chưa có công phu, chưa sống được với tri kiến Phật, thì cũng chỉ là ngôn cú bên ngoài, không dính dáng gì đến việc của mình. Thế nên các thiền sư nói: Mặc ông! Ông nói đến trời mưa hoa, đá gật đầu, ta cũng cứ nói rằng không dính dáng. Dù ông nói tới trời mưa hoa, đá gật đầu, ta cũng bảo điều ấy chưa dính dáng. Khi nhận và sống được với tánh giác thì những thứ bên ngoài đều không còn giá trị gì nữa. Giống như người vào thiền, tỉnh táo sáng suốt rồi thì vọng tưởng không kéo lôi được người đó. Đây là chỗ công phu của chúng ta. Ngược lại nếu không tỉnh táo để vọng tưởng kéo lôi thì xem như thất bại, nó xỏ mũi lôi chúng ta đi tuốt, không biết đường về.

Hồi trước có một anh chàng thanh niên tuấn tú, sau khi đỗ tú tài, anh tiếp tục học về ngành bưu điện. Sau đó ra trường đi làm và có một cô bạn gái. Gia đình anh đi tu hết, nên người thanh niên ấy cũng muốn đi tu nhưng anh vẫn còn dằn co với tình cảm của mình. Một hôm anh chàng lên núi, nghĩ rằng gần gũi cha mẹ, anh chị là người tu, chắc sẽ dễ dàng xuất gia. Việc mặc áo nhuộm, ăn chay và làm công quả nhọc nhằn trên núi với anh không thành vấn đề. Cho nên anh cảm thấy mình tu quá dễ, mọi thứ dưới trần gian ném quách hết. Sự bình ổn ấy kéo dài khoảng hơn tuần lễ

Một hôm trở trời, anh thấy người hơi nhọc nhằn, không vui, không khoẻ nên anh không đi làm công tác. Đùng một cái người thương dưới phố lại lên. Bao nhiêu những dặn dò, nhắc nhở, kinh sách anh đọc lâu nay dồn đống lại, không dùng được thứ nào hết. Cô ấy lên chỉ có mấy tiếng đồng hồ mà lôi anh chạy xuống núi tuốt. Xuống núi rồi đi một lèo luôn. Họ thành thân, sống với nhau có được một đứa con. Không hiểu sao bỗng nhiên anh tự đăng ký đi bộ đội, mặc dù không có lệnh gọi, vì anh là cán bộ hạng A mà. Anh đi tuốt lên vùng Sao-mác, Cà-chuông Cà-chóc, Bù Đăng Bù Đốp gì đó. Sau vài lần bà mẹ lên thăm còn gặp gỡ. Đến lần đó thì đồng đội chỉ cho mẹ anh… một tấm bia nhỏ khắc tên con trai bà. Tại vì anh bị trúng pháo, thân thể tan nát hết. 

Tôi kể câu chuyện này để huynh đệ thấy vọng tưởngsức mạnh ghê gớm lắm. Các thiền tăng phải có kinh nghiệm. Những vọng tưởng loay hoay ở Long Thành, Phước Thái đây thì không kéo quí vị đi đâu, nhưng những vọng tưởng ở Thành phố Hồ Chí Minh nó kéo quí vị chạy xa lắm đó. Cho nên phải dè dặt. Đối với vọng tưởng phải dè dặt, phải biết nó là vọng thì mới yên thân. Hy vọng các thiền tăng của chúng ta không bị vọng tưởng lôi kéo. Dù vọng tưởng thuộc loại hình nào cũng không làm gì được mình, ta mới là người chiến thắng, mới nhận được tri kiến Phật

Học đề cương kinh Pháp Hoa, chúng ta phải nhận cho được điều này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10350)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12240)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15365)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16665)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12277)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11532)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14337)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24675)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10734)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12537)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10455)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12389)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11697)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12083)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13062)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11490)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17494)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21494)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10720)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19332)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12463)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26121)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14432)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13768)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16895)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17653)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13191)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12561)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11662)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11666)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20522)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19066)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19649)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18758)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15106)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15100)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14032)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15565)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14594)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15905)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12933)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18508)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15821)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11122)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53754)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13038)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16631)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15494)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20019)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15610)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15413)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15221)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10450)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20444)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15573)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13097)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20298)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13333)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29064)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11761)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant