Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

19 Phẩm Đà La Ni

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6505)
19 Phẩm Đà La Ni

ĐỀ CƯƠNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Nhật Quang
Thiền Viện Thường Chiếu

 

Phẩm Đà La Ni

CHÁNH VĂN

Phẩm Đà-la-ni, đây gọi là Tổng trì. Nghĩa là tổng nhiếp tất cả pháp và thọ trì tất cả nghĩa. 

Do vì người tu hành đã thấy được tâm thể xưa nay trong sạch của mình rồi. Phải biết rằng, tâm này vốn đầy đủ hằng sa công đức, và vô lượng pháp môn cũng đều nương nơi tâm này mà diễn xuất. 

GIẢNG

Phẩm Đà La Ni là phá hành ấm. Chữ “Tổng trì” tức nhiếp tất cả pháp và gìn giữ tất cả pháp. Đến phẩm Đà La Ni là giai đoạn phá dẹp triệt để tất cả những dấy niệm dính mắc, những cù cặn cố chấp đối với thân năm uẩn.

Hành là những chuỗi vọng tưởng nối nhau bởi các niệm. Bây giờ mình điều trị, phá dẹp triệt để, buông bỏ rốt ráo mọi niệm tưởng. Thân năm uẩnphương tiện để chúng ta tu hành, mà cũng là chướng ngại cho bước công phu của mình. Người tu dùng thân năm uẩn như phương tiện, như thuyền bè để vượt qua sông. Nghiệm kỹ, trong lòng chúng ta có những vấn đề không ra gì, rất tầm thường, nhưng quả thực nó làm trở ngại công phu chẳng ít. Từ những trở ngại đó biến thành hầm hố, cuối cùng chúng ta không vượt qua được.

Người con Phật nhìn từ nhân, từ sơ niệm ban đầu đã buông bỏ, không phải đợi đến lúc thành sự mới phá dẹp. Có những cù cặn nhỏ xíu, chúng ta không sáng suốt nhìn thấu, buông bỏ nó một cách dứt khoát, lâu ngày nó thành khối thì bỏ rất vất vả. Cách tu của thiền sư là luôn nhìn lại mình. Phản quan tự kỷ là soi lại nhìn mình, chứ không nhìn ai hết. Trong sinh hoạt hằng ngày, các huynh đệ hãy chính chắn nhìn lại mình, có chút gì bất ổn về thân về tâm, về sự tiếp cận tương giao, về ăn ngủ, danh vọng, tiền tài… tất cả các thứ, tỉnh táo trị nó là tu.

Thiền là gì? Là buông, là không vướng mắc bởi bất cứ một trở ngại nào. Thiền nói theo cách định nghĩa danh từ là thiền-na, trong đó gồm cả định và tuệ, tức tu chỉ và tu quán. Chỉ là dừng. Dừng tất cả vọng tưởng. Quán là chiếu soi. Chiếu soi lại chính mình. Chỉ quán hỗ trợ cho nhau để buông bỏ cái giả, nhận ra cái thật. Đó chính là tu thiền

Ở đây nói gọn hơn, thiền là buông. Buông cái gì? Giận buông, ham ăn buông, ham ngủ buông, ham danh buông, ham lợi buông… Từng phần từng đoạn như thế, chúng ta tập làm chủ, không phải đặt vấn đề trên mây xanh. Ngay trong đời thường, người tu thiền là người có đầy đủ định lựctuệ lực. Định lực là dừng được mọi vọng niệm lăng xăng điên đảo. Tuệ lực là mắt tuệ luôn sáng, không có vấn đề nào không bị soi thủng.

Phẩm Đà La Ni này triệt để tập trung sức mạnh phá hành ấm. Có thể hiểu hành là những suy nghĩ, mình gẫm mình nghiệm mình xét về các sự kiện. Một khi tâm chúng ta đã sáng suốt, tuệ giác đầy đủ thì không dung bất cứ một niệm nghĩ suy nào. Đến giai đoạn này, công phu tiến triển như vậy. Muốn thế phải làm sao, bắt đầu từ chỗ nào, lập cước ở đâu? Chỗ lập cước là chỉ lực và tuệ lực. Nói thiền nói định, nói tâm nói tướng, nói nhân nói ngã gì, mà không dừng được thì không có thiền định chi hết. Như xe chạy đến chỗ nguy hiểm phải thắng lại, thắng không được thì chết, rõ ràng như vậy. 

Việc tu hành của chúng ta cũng vậy. Đối với tất cả pháp trần, ta sử dụng nó chớ đừng để nó sai sử mình. Không có cái chuông tự nhiên kêu, mình sử dụng nó mới kêu. Như vậy chúng ta là chủ nhân ông rồi. Nhận được chỗ này là công phutiến triển. Ở phần phá tưởng ấm, nói chúng ta là chủ nhân ông, là người không bị động bởi bất cứ những thứ chung quanh, đã sống được với tâm thể thanh tịnh. Chỗ này nói chỉ lực và tuệ lực phát huy rực rỡ. Tất cả những công phu tựu trung từ chúng ta thôi. Ngày hôm nay mình nhận ra và bắt đầu gầy dựng lại chỉ lực của mình. Chỉ lực mạnh rồi, tới chỗ thắng là thắng, tới chỗ dừng là dừng, tới chỗ đi là đi, tới chỗ nói là nói, hoàn toàn làm chủ.

Chúng ta là người xuất gia mà không có tỉnh lực, không khẳng định mình chuyển hoán được mình thì tu vô ích, ngàn đời chúng sanh vẫn là chúng sanh, mê muội vẫn là mê muội. Như các anh em lúc mới tới đây tóc tai chải tém, quần áo bảnh bao. Vô thiền viện một thời gian bị tương chao, rau muống luộc, củ cải trắng nó hành, hôm nào đánh trọc cái đầu, rồi mặc áo nhuộm sống với đại chúng. Về hình thức đã chuyển rõ ràng, tâm niệm cũng theo đó mà chuyển. Hành trình này giống như những toa xe lửa nối nhau. Nếu đầu máy bị sự cố không chịu hoạt động thì những toa sau ngừng hết. 

Vì vậy một khi đã chuyển rồi, anh em cứ việc đốt. Đốt bằng ngọn lửa trí tuệ cho đầu tàu hoạt động, lôi con tàu này về tới bến đổ của nó. Nếu chúng ta ngưng nửa chừng thì chẳng những đầu tàu mà cả con tàu không chạy được. Cho nên tu hành cần chuyển hoán liên tục, không được ngưng nửa chừng. Tới lúc gây gổ, mình nói để tôi đọc bài trị bệnh gây gổ thì chậm quá. Phải thuộc trước, luôn luôn chủ động mới đưa được con tàu đi đúng theo sự sắp đặt của mình. Nếu không chúng ta dễ bỏ cuộc lắm. Như ngồi trên bàn ăn sáng vui vẻ, vừa bước ra có ai nói câu gì khiến mình buồn lòng. Buồn lòng mà không nói ra được nên nản, không sinh hoạt nhịp nhàng theo thời khóa của thiền viện, muốn ra cổng đón xe về quê. Đó là vì không chịu đốt lên ngọn lửa trí tuệ, khiến cho con tàu ngừng chạy.

Thành ra những ý niệm âm thầm bên trong làm trở ngại việc tu hành. Nếu chúng ta không đả thông được thì xảy ra sự cố. Những việc bình thường đôi khi lại rất khó giữ. Cho nên tới giờ ăn còn suy nghĩ, tới giờ tụng kinh còn suy nghĩ, tới giờ làm việc còn suy nghĩ, tới giờ ngủ còn suy nghĩ v.v... Hành uẩn luôn sẵn sàng tấn công mình, vì sự thắp sáng bên trong không đầy đủ. Vì thế giữ gìn sinh hoạt điều hòa tốt đẹp, là điều phục được tâm một cách miên mật, chớ không phải thường đâu. Như con tàu kéo hết tất cả toa về tới nơi tới chốn. Việc làm của chúng ta hằng ngày thể hiện sức mạnh nội tâm, chớ không ở đâu khác. 

Trong sinh hoạt chúng ta không chạy theo, không bị động bởi ngoại cảnh bên ngoài, bình thường an nhiên, tiêu sái hài hòa. Đẹp làm sao! Một thiền tăng đi trong thanh thản, trầm tỉnh, trang nghiêm rất dễ chiêu cảm đến người khác. Ngược lại, vị nào vừa đi vừa nghĩ ngợi lung tung, sẽ hiện tướng bất an, dao động. Đó là vì bị hành ấm chuyển hoặc tưởng ấm quậy. Người tu thiền không nên như vậy. Phải ngay trong sự sống mà chuyển hóa. Bình an hay không, đến nơi hay không là từ tâm thể của mình, chứ không ai khác. Người đã nhận và sống được với tri kiến Phật, tất cả các pháp đều được tổng trì trong tánh giác ấy. 

CHÁNH VĂN

Người nhận đây tu hành thì sáu độ muôn hạnh thảy đều tròn đủ. Lại, thọ trì mật ngữ, thần lực thầm giúp, có thể mau chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhưng, thọ trì đà-la-ni, là biểu lộ tâm này vốn không phân biệt, chẳng thể suy lường, không cho nghĩ nghị, cho đến lìa tất cả tướng ngôn ngữ, văn tự, nghĩa lý… Kinh Kim Cương nói: “Phàm những gì có tướng đều là hư vọng” chỉ linh linh, lặng lặng, sừng sững chẳng đổi. Thế nên ý nghĩa trong thần chú, không thể diễn giải, chỉ tin nhận và thọ trì, thần công chẳng thể trắc nghiệm nổi. Và đây cũng nhằm đả phá lớp vọng tưởng u ẩn của hành ấm thứ tư vậy.

GIẢNG

Ở đây nói thọ trì mà không thọ trì gì hết, bởi vì tâm thể linh tri an nhiên như vậy. Người nhận và sống được tâm thể này là giác ngộ giải thoát. Nói tổng trì cũng được, nói chân như cũng được, nói Niết-bàn cũng được, nói gì cũng được, cái chính là phải hằng sống với tánh giác. Ngài Minh Chánh dẫn kinh Kim Cương nói tất cả những gì có tướng đều không thật, chúng ta không lầm không theo, chỉ an trụ nơi tánh linh tri thường tại thì dứt sạch điên đảo vọng tưởng. Phẩm này phá lớp mê lầm thứ tư là hành ấm. Nó chính là những lớp vọng tưởng, chứ không có gì lạ. Tu đến đây là gần hoàn chỉnh rồi.

CHÁNH VĂN

Nên biết, tiết này cùng với kinh Lăng Nghiêm, đoạn nói về ba cõi, bảy thú, mười hai loài sanh, tất cả cõi nước hữu vi gồm về trong một tâm này mà sanh. Nếu khi đắc ngộ, thì ba cõi, bảy thú v.v… đều là mộng huyễn, đều do vọng tưởng khởi lên, vốn chẳng có thật. 

GIẢNG

Khi chúng ta sống được với tâm chân thật thì những hiện tượng chung quanh chỉ là vọng tưởng. Chư huynh đệ tu tập như thế nào, mà đối với tất cả cảnh duyên không động, chắc chắn không bị rơi vào ba cõi sáu đường, mười hai loài sanh, tất cả cõi nước hữu vi. Bấy giờ thấy chúng đều huyễn mộng, không có sức lôi kéo chúng ta nữa. Như ngày xưa mình mê non bộ, đến khi nhận ra non bộ chỉ là những khối đá lỏm ngỏm, do mấy tay nghệ nhân tạo hình tạo dáng thế này thế kia vậy thôi. Thành ra non bộ mà không non bộ gì hết, bởi nếu thảy ra từng cục đá thì chúng chẳng có ý nghĩa chi. Do vậy không có gì để mình mê cả. Đó là giác ngộ. Rất giản dị. 

Phật nói các pháp từ duyên sinh huyễn hóa, hợp thể đó là giả tạm, không thật. Chúng ta nhận được như vậy thì các pháp không đủ sức làm lầm và kéo lôi mình. Người có trí lực thấy rõ từng bộ phận duyên sinh, nên không chạy theo nó nữa. Nhìn các pháp hiện tiền, tánh linh tri của chúng ta hiện bày rõ ràng. Ngồi cũng thế nằm cũng thế, ban ngày thấy như vậy, ban đêm cũng thấy như vậy. Huynh đệ tu hành phải nỗ lực đi đến chỗ này, chứ lâu lâu nhớ nhà, thấy gì cũng ham cũng thích thì đâu còn là người tu nữa. 

Dùng trí tuệ tấn công vô minh thì không có hệ thống phòng thủ nào không bị phá vỡ triệt để. Người đã có năng lực, công phu thấy các pháp bình thản, không khởi niệm tham đắm. Chẳng những các pháp bên ngoài mà ngay thân mình cũng vậy. Nếu chúng ta không soi lại, không thấy tới nơi tới chốn, mình sẽ lầm thân tâm mộng huyễn là thật có. Từ đó chấp giữ, tạo nghiệp là chiêu cảm quả khổ. Bây giờ huynh đệ nhìn lại xem, chỉ cần mình nhịn đói vài hôm, mất ngủ vài hôm, hoặc không tắm rửa vài hôm sẽ thấy thân thay đổi, xuống dốc liền. Không đánh răng một bữa thôi đã nghe mùi hôi xông ra từ miệng. Cho nên đức Phật nói thân này là nhà xí sinh hoa, là cái bô vẽ khéo, nhơ nhớp vô cùng. Không cần phải quán chiếu gì hết, chúng ta thấy rõ ràng ngay chính bản thân này rồi. 

Huynh đệ nhớ trong công phu đừng để cảnh duyên bên ngoài kéo lôi, nghĩa là chúng ta phải đầy đủ chủ lực. Nói thì dễ nhưng vào công phu rất khó. Cho nên đòi hỏi chúng ta quyết tâm, lập nguyện vững chắc, nuôi lớn ý chí mới có thể sống chết với bản nguyện tu hành cầu thoát ly sanh tử. Nói thế để anh em tập trung vào việc thực hành. Bởi vì có thầy học nhiều quá, rồi đem ra nói, bàn luận về hành trạng của các tổ xem như rất lão thông, nhưng thực chất bản thân với không tới, thành ra hụt hẩng. Từ hụt hẩng đi đến bất đắc chí. Quí vị mang cái bệnh ấy mà không dám nói ra, sợ huynh đệ cười. Do đó việc tu hành chẳng đi tới đâu. 

Hòa thượng Ân sư dạy tu là phải ra tu, không lờ mờ, không ai bắt buộc. Mọi sinh hoạt, từng bước từng niệm, chúng ta tạo ra một sức sống lạc quan, tỉnh giác, đó là thiền. Trí tuệ Bát-nhã lúc nào cũng dàn trải trùm khắp, đó là biết ứng dụng lời Phật dạy vào cuộc sống tu hành. Quí vị đừng bao giờ để mình trở thành người thượng bất chí, hạ bất đáo, đừng bao giờ để mình hụt hẩng. Quí vị phải thuộc lòng hành khúc “dù gian khó ta hằng sống trong hòa khí, trong an lành. Dù vui sướng ta thường nhắc mau dừng bước lang thang này...” Trong anh em có những vị bất đắc chí, không dám nói ra. Tôi đề nghị chúng ta cắt đứt tình trạng đó ngay. Huynh đệ phải thẳng thắng trừng trị tập nghiệp yếu đuối của mình. Không thì những ung nhọt ấy sẽ loang lở, làm hỏng đi lý tưởng, bản hoài cao quý nhất của chúng ta

Sự tu hành của chúng ta hôm nay rõ ràng như thế. Từng bước trở về nhà, bước đúng và bước nhanh. Đó là bước nhảy vượt, không nên chần chờ, nấn ná. Ai quyết tâm trở về nhà, nhất định sẽ tới nhà. Bước nhanh thì tới nhanh, bước chậm thì tới chậm, nhảy vượt càng nhanh hơn. Rõ ràng như thế. Như từ thiền viện muốn đi thành phố, quí vị đứng bên đây đường đón xe Vũng Tàu về, đi như vậy sẽ tới nơi. Nếu quí vị bước qua bên kia đường đón nhằm xe đi Vũng Tàu, dù có cầu nguyện bao nhiêu, xe đó cũng đưa quí vị đến Vũng Tàu. Tất cả đều do chúng ta thôi. 

Các thầy lớn tuổi hiểu rõ việc này nên mỗi sáng chỉ thích quét lá, trang đá mi vậy mà vui. Thầy làm cỏ, quét dọn lau chùi chung quanh chùa cũng vui. Thầy lượm lá giữ nhà tròn cũng vui… Rõ ràng bước chậm bước nhanh, bước ngắn bước dài gì, mà từng bước về đúng hướng thì nhất định đến nhà an vui. Ngược lại bước sai thì bước chậm sai chậm, bước nhanh sai nhanh, nhảy vọt càng té đau. Tu trong công việc, chánh tâm nhiếp ý, không vọng tưởng lung tung tức là phá hành ấm vậy. 

CHÁNH VĂN

Giờ đây, thọ trì đà-la-ni, lòng không phân biệt, chẳng khởi vọng tưởng. Thế thì, hội vọng qui chân, chân vốn lặng sáng. Khi đó chẳng còn thấy có tướng ba cõi, bảy thú, cùng tất cả tướng hữu vi nữa. Vì thế chư Phật và Bồ-tát cùng chư thiên, quỉ thần, đồng thanh nói đà-la-ni, cũng là để chứng tỏ tổng qui ở một tâm này thôi.

Tổ sư Vĩnh Gia nói:

Chóng rõ biết, thiền Như Lai,
Sáu độ, muôn hạnh thể tròn bày,
Trong mộng, rõ ràng có sáu thú,
Thức rồi, không không, chẳng đại thiên.

Nói trong mộng, tức chỉ cho trong vô minh vọng tưởng thấy có các cảnh giới vậy.

Kệ rằng:

Tiếng Phạn tên gọi đà-la-ni,
Phương này dịch lại ấy tổng trì,
Đọc tụng cần rành viên đốn chỉ, 
Thọ trì nên rõ tín diệu tri,
Thần thông tợ biển văn linh tỏ,
Trí tuệ dường non mật ngữ ghi, 
Trong tánh tịch diệt không một vật,
Xưa nay một vật tột thi vi. 

GIẢNG

tu tập chúng ta mới nhận định chính chắn. Phần tu tập giống như phần thể nghiệm bên khoa học. Kinh văn hướng dẫn chỉ là công thức, bản đồ, mỗi chúng ta phải thể nghiệm mới đến được chỗ cứu cánh chân thật

Chúng ta thể nghiệm rồi tự sống, tự phát huy công phu. Mạng sống có bao lâu, thân này không bảo đảm nay còn mai mất. Thân mình to lớn như thế mà một mũi kim nhỏ đâm vô chịu không nổi, hà huống những ung nhọt khác. Người không sáng cứ cố chấp, dù Phật hiện ra cũng không cứu được. Chỉ có mình tự cứu mình thôi. Những gì ta thấy chưa hoàn chỉnh cố gắng tu sửa cho hoàn chỉnh. Việc này không đợi ai nhắc nhở. Chúng ta tu cho mình, chớ chẳng tu cho ai, sao phải đợi nhắc? 

Tới phẩm này là phá hành ấm. Giai đoạn công phu đã vững, sắp tròn đủ, nên rất sáng suốt. Vì vậy hành giả chỉ khéo bảo nhậm giữ gìn. Nên nhớ tánh giác không một vật, xưa nay thường vắng lặng, không dung một niệm nào. Ứng dụng như vậy là phá hành ấm một cách triệt để

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10350)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12239)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15364)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16659)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12276)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11530)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14335)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24673)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10733)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12536)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10454)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12386)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11696)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12082)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13059)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11488)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17493)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21490)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10718)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19330)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12462)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26119)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14428)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13767)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16895)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17648)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13191)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12561)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11661)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11664)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20522)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19064)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19649)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18755)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 15106)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15099)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14031)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15563)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14592)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15901)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12933)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18506)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15820)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11122)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53751)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13038)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16630)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15492)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 20017)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15609)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15409)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15221)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10447)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20444)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15571)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13094)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20296)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13331)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29061)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11761)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant