Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10- Phật Hương Tích

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7490)
10- Phật Hương Tích

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Phật Hương Tích 

1- Giới thiệu cõi Phật Hương Tích

Mượn vấn đề ăn trưa để gián tiếp giới thiệu một cõi Phật mà cách hóa độ khác hẳn cõi Ta-bà. Cõi Phật Hương Tích, tên gọi là nước Chúng Hương, ở đó không có đệ tử Thanh văn Bích-chi, chỉ có hàng đại Bồ-tát thanh tịnh. Tất cả đều cấu tạo bằng hương: lầu đài, vườn tược, đất đai, thức ăn là hương thơm tràn khắp mười phương. Đức Phậtđại chúng cõi ấy đang thọ thực, Duy-ma-cật không rời chỗ ngồi mà hóa hiện một vị Bồ-tát với tướng hảo, uy đức và ánh sáng siêu việt, làm lu mờ cả đại chúng cõi này. Duy-ma-cật bảo vị hóa Bồ-tát đến cõi Chúng Hương xin một phần cơm dư của đức Phật Hương Tích để về làm Phật sự ở cõi Ta-bà, làm cho những người ưa thích pháp nhỏ đều phát tâm về Đại thừa.

Đoạn kinh này ngoài ý nghĩa đề cao uy lực của Duy-ma-cật, vốn đã được đề cao rồi, muốn chúng hội thấy một cõi Phật trang nghiêm để phát khởi tín tâm, trong đó còn hàm ngụ một nhận thức khoa học. Ngày nay khoa thiên văn khám phá trong vũ trụ có biết bao nhiêu hành tinh, bao nhiêu thế giới. Thế giới Chúng Hương có thể được cấu tạo bằng những chất nhẹ, có những yếu tố khác thế giới Ta-bà. Chúng sanh cõi đó cũng sinh hoạt khác, không phải ăn uống như chúng ta. Về việc một người có thể đến một thế giới cách xa như thế, và trở về trong khoảng bữa ăn thì hiện nay khoa học còn đang tìm những phương tiện du hành vũ trụ. Thuyết hóa thân cũng được sáng tỏ nếu sau này người ta thành công trong việc chế tạo phiên bản. Tóm lại cõi nước của Phật Hương Tích được giới thiệu như một hành tinh mà trình độ văn minh khoa học tiến xa hơn chúng ta. Những điều trình bày trong đoạn này không phải là quyền năng thần thông, nhưng được dự đoán bởi các nhà tu học chân chánh.

2- Công năng cơm Hương Tích

Khi các đại sĩ thấy hóa Bồ-tát đều ca ngợi và thưa hỏi đức Phật Hương Tích về cõi Ta-bà. Đức Phật bèn giới thiệu cõi phương dưới, đức Thích-ca đang hóa độ ở một nơi đầy những xấu ác tệ nạn, có những chúng sanh ưa tiểu pháp, Phật Thích-ca vì họ dạy đạo. Ở đó cũng có Bồ-tát tên Duy-ma-cật được sức giải thoát siêu việt, có công đức năng lựcthần thông rất lớn, mười phương đều có hóa thân đi làm Phật sự.

* Chúng ta ở cõi nhỏ nên tâm lượng nhỏ nhìn Duy-ma-cật như một cư sĩ, còn cõi Phật Hương Tích nhìn Duy-ma-cật như một đại Bồ-tát có những hành động phi thường. Người làm việc lớn có lượng thông cảm lớn cho nên Duy-ma-cật đã gặp được vị tri kỷ ở phương trên.

Chín trăm vạn vị Bồ-tát cõi Chúng Hương đều muốn đến thế giới Ta-bà, đức Phật căn dặn nên thâu bớt mùi hương nơi thân, thâu bớt oai nghi tướng hảo, và đừng khinh tiện cõi ấy khởi ý tưởng ngăn ngại. Vì sao? Vì mười phương cõi nước như hư không, và chư Phật vì hóa độ người thấp kém không thể hiện hết vẻ thanh tịnh của mình.

Khi vị hóa Bồ-tát cùng chúng đại sĩ về đến thành Tỳ-da-ly, Duy-ma-cật đã sắp sẵn những tòa sư tử đẹp để chào đón.

Ở đây nói về sự dung thông không ngăn ngại, nên trong ngôi thất nhỏ có thể chứa trăm vạn ức việc lạ lùng. Bấy giờ bát cơm thơm đã lan tỏa khắp thành Tỳ-da-ly và đại thiên thế giới. Những hàng cư sĩ… nghe hơi thơm đều thích thú, trưởng giả tử Nguyệt Cái cùng 84.000 người đều đến nhà Duy-ma-cật, các vị trời thần cõi Dục, cõi Sắc nghe hương thơm đều đến nhà Duy-ma-cật.

* Để diễn tả tính cách hương thơm làm Phật sự, chúng ta thấy mùi cơm thơm làm chúng sanh thân ý thơ thới, và đều nhận tín hiệu mà vân tập. Cơm là một thực phẩm nuôi sống, nhưng ở đây dùng thực phẩm mùi hương, chúng sanh dùng thức thực (ăn bằng ý thức), thực phẩm ấy nuôi lớn căn lành cho mọi người nên gọi là món ăn tinh thần.

Duy-ma-cật mời các vị Thanh văn thọ thực, lưu ý rằng cơm có mùi vị cam lộ của Phật, do đại bi huân ướp, nên không thể dùng ý thức có hạn lượng mà ăn, nếu sử dụng ý thức giới hạn thì ăn không tiêu. Dù chỉ là một bát cơm nhưng hết cả thế giới cùng ăn, mỗi vắt cơm lớn như núi mà ăn cả kiếp cũng không hết. Vì sao? Vì thức ăn dư của bậc đầy đủ công đức, bậc có vô tận Giới, Định, Huệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến thì không bao giờ cùng tận.

* Chúng sanh cũng có khả năng ăn suốt ngày, khi sáu căn gặp sáu trần. Nhưng chúng sanh ăn thức ăn vọng tưởng nên không an lạc, ăn từ vô lượng kiếp mà vẫn không no. Còn chỉ một chút ít cơm thừa của Phật, nhưng đó là từ thể tâm thanh tịnh, nên dù chỉ dùng một lần cũng đủ. Mã Tổ sau khi ngộ ở chỗ thiền sư Hoài Nhượng, khi thuyết pháp có vị tăng đến dò xét hỏi. Sư đã đáp “Từ loạn Hồ sau ba mươi năm, chưa từng thiếu tương muối.”

Khi đại chúng ăn cơm xong ai nấy đều cảm thấy thân an lạc, tâm vui, như các Bồ-tát ở thế giới “Nhất Thiết Lạc Trang Nghiêm”. Từ lỗ chân lông mọi người phát ra mùi thơm vi diệu như mùi các cây ở nước Chúng Hương.

Ăn cơm xong thì việc làm của Duy-ma-cật cũng gần xong. Đại chúng dù trời người hay hàng Thanh văn đều trở nên như Bồ-tát. Diễn tả mùi thơm từ lỗ chân lông có nghĩa là toàn thân, không sót một phần nào của cơ thể, toàn đại chúng không sót một ai đều được pháp vị, được lợi ích lớn. Cho nên từ đoạn này trở đi không còn chuyện các vị cằn nhằn, ngạc nhiên gì cả. Như vậy từ đầu hiện bệnh đến lúc thọ trai, Duy-ma-cật đã mời đại chúng dự một hội pháp lớn, đã trình diễn đủ phương tiện, làm các kiến chấp nhỏ hẹp rơi rớt hết. Kết thúc là một buổi tiệc thú vị phi thường. Ai cũng ăn được, cơm vẫn không hết, ai cũng có khả năng thành Phật, mà đất tâm y nhiên, chưa từng hao hụt mất mát, không phải vì mất phiền não mới được cơm Phật. Ở đây nhà thiền nói “Tròn đồng thái hư, không thiếu không dư”.

3- Các phương tiện giáo hóa

a- Sự khác nhau giữa hai thế giới

Duy-ma-cật hỏi các vị Bồ-tát nước Chúng Hương về phương tiện thuyết pháp ở cõi ấy. Đức Phật Hương Tích không dùng văn tự, chỉ dùng hương thơm khiến mọi người vào chánh pháp. Bồ-tát cõi ấy ngồi dưới cội cây thơm nghe mùi hương thì được chánh định, đầy đủ mọi công đức.

Đối lại, khi được hỏi về cách giáo hóa của đức Thích-ca, Duy-ma-cật đã cho thấy được một kỳ công điều phục ở cõi này. Vì chúng sanh đều thuộc hạng cứng đầu khó dạy, đức Thích-ca phải dùng lời nói mạnh (khác với sự nhẹ nhàng của Phật Hương Tích). Nói bao nhiêu điều khổ ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… dùng toàn lời nghiêm trọng. Nói về những tà hạnh của thân, miệng, ý và những quả báo dữ dội, nguy hiểm, ghê sợ của những lỗi lầm ấy. Lại còn phải chỉ dạy cặn kẽ: đây là giữ giới, đây là phạm giới, đây là nên làm, đây là không nên làm, đây là bị tội, đây là lìa tội, đây là sạch, đây là nhơ… Phân tích như thế này chỉ vì chúng sanh ngu si cang cường, tâm như khỉ vượn, vừa nghe liền quên, tâm luôn nhọc nhằn nắm bắt. Phải dùng toàn lời cay đắng, đau đớn như quất roi vào xương mới tỉnh ngộ. Chúng ta thấy những người thông minh hiền dịu chỉ cần nói một lời nhẹ cũng đủ sợ sệt biết lỗi, với người ngu đần hung dữ thì phải đánh mắng trị phạt, phải có luật lệ giam cầm mới sợ. Do đó những nhà tù, những hình phạt có ra chỉ vì đối với người ngu kẻ dữ.

Các Bồ-tát nước Chúng Hương nghe Duy-ma-cật nói xong đều nói rằng: Thật hiếm có! Như đức Phật Thích-ca phải che khuất vô lượng sức tự tại mà dùng những pháp của kẻ nghèo cùng ưa thích để độ thoát chúng sanh, các Bồ-tát cõi này cũng mệt nhọc khiêm tốn để dùng vô lượng đại bi mà sanh ở cõi này.

Như thế đã rõ, hai cõi Phật hai cách giáo hóa khác nhau. Chỉ vì căn cơ chúng sanh hạ tiện nên Phật cùng chư Bồ-tát kiên nhẫn dùng cách thức đối với người hạ tiện.

b- So sánh công đức hóa độ

Duy-ma-cật nói rằng: Đúng như lời các Ngài nói. Bồ-tát ở đây có lòng đại bi kiên cố. Nhưng một đời ở đây hóa độ nhiều hơn hóa độ công đức ở cõi khác trăm ngàn kiếp. Vì sao? Cõi Ta-bà có mười việc lành mà các cõi tịnh độ khác không có:

1- Dùng bố thí nhiếp phục bần cùng.

2- Dùng tịnh giới nhiếp phục phá giới.

3- Dùng nhẫn nhục nhiếp phục sân hận.

4- Dùng tinh tấn nhiếp phục giải đãi.

5- Dùng thiền định nhiếp phục loạn ý.

6- Dùng trí tuệ nhiếp phục ngu si.

7- Nói pháp trừ nạn để độ tám nạn.

8- Dùng pháp Đại thừa độ người ưa Tiểu thừa.

9- Dùng các căn lành cứu tế người không có đức.

10- Thường dùng tứ nhiếp pháp thành tựu chúng sanh.

Như thế Bồ-tát tu ởû cõi Ta-bà công đức nhiều gấp trăm ngàn lần các Bồ-tát ở những cõi tịnh độ khác. Vì ở đây các vị có dịp thực hành lục ba-la-mật, rèn luyện thêm những đức tốt. Nói là độ sanh vì người nhưng khi thực hành các việc lành chính là thành tựu công hạnh cho mình. Như giáo sư giảng dạy, vì phải nghiên cứu kỹ nên lại giỏi hơn, thông suốt vấn đề hơn. Như thế tu ở cõi Ta-bà không có gì phải nản lòng.

c- Tám hạnh lành của Bồ-tát

Bồ-tát nước Chúng Hương hỏi: Ở thế giới này Bồ-tát thành tựu bao nhiêu pháp mới được trọn vẹn không khiếm khuyết?

Duy-ma-cật đáp: 

- Thành tựu tám pháp:

1- Làm lợi ích chúng sanh mà không mong báo đáp.

2- Thay thế tất cả chúng sanh thọ khổ mà có bao nhiêu công đức đều cho hết.

3- Tâm bình đẳng đối với chúng sanh, khiêm tốn vô ngại.

4- Đối với các Bồ-tát xem như Phật, với kinh chưa nghe, nghe mà không nghi.

5- Đối với Thanh văn không có tâm chống trái.

6- Không ganh ghét khi người được cúng dường, không đề cao lợi dưõng của mình, mà đối với những việc ấy thường điều phục tâm.

7- Thường cảnh tỉnh lỗi mình, không tuyên truyền lỗi người.

8- Thường nhất tâm cầu các công đức.

Trong tám điều lành chúng ta có thể chia ra như sau. 

Ba điều lành đối với chúng sanh (1-2-3), rất khó không phải dễ. Làm lợi ích cho họ, thay thế khổ cho họ mà lại có tâm bình đẳng. Bồ-tát không quán triệt ngã không pháp không thì căn lành không thành tựu

Hai điều 4-5 là đối với hàng Bồ-tát và Thanh văn nghĩa là tuy kính Bồ-tát mà không chê Thanh văn

Hai điều 6-7, là đối với những điều xảy ra cho mình, cho người. Tâm lý chúng sanh là ganh với người, khi thấy người có chút lợi lộc liền không ưa, với mình thì có lợi mấy cũng được. Và lỗi mình tự che, lỗi người cứ tuyên truyền. Những điều này tưởng như tầm thường nhưng nếu làm được một trong tám điều trên – nhất là 6-7 thì đã là hạnh Bồ-tát, được sanh về tịnh độ. Chúng ta nếu quyết tâm không ganh người, không đề cao mình thì hạnh lành viên mãn. Và cũng nên hiểu rằng nếu thành tựu tám điều trên đây, thì hương thơm hạnh lành của chúng ta đã xông ngát cho mười phương cõi, nơi ta ở là tịnh đô hiện tiền. Đó là đại ý phẩm Phật Hương Tích. Mùi hương ở đây không ở nơi các loại hương liệu, nước hoa, mà chính từ ngay những công hạnh, qua tám điều kể trên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8331)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7614)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8644)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7172)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8462)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7750)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 7031)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8242)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9273)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7967)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8442)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 8090)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9654)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6809)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6851)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 7066)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6700)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7228)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6877)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16339)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7576)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6516)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6975)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7303)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6379)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6750)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5612)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8955)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7427)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22451)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7812)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6876)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 15079)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8662)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13140)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 19081)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 6029)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6275)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 7045)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7368)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8410)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5703)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5894)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5531)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6524)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5970)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7561)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5840)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6774)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6830)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5764)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6274)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5556)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7187)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6119)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7968)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6128)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7153)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6995)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 7037)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant