Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Tựa- Daniel B. Stevenson Và Neal Donner

25 Tháng Tám 201000:00(Xem: 11678)
Lời Tựa- Daniel B. Stevenson Và Neal Donner

NGHIÊN CỨUPHIÊN DỊCH ĐẠI PHẨM THỨ NHẤT
MA HA CHỈ QUÁN 
PHÁP MÔN VIÊN ĐỐN

(The Great Calming and Contemplation)
THIÊN THAI TRÍ KHẢI

Neal Donner & Daniel B. Stevenson biên soạn - Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2009

Tựa

Qua nhiều thế kỷ, truyền thống Phật giáo được thành lập bởi Đức Thích Ca Mâu Ni khoảng thế kỷ thứ năm trước Tây lịch dần dần lan rộng từ chiếc nôi Ấn Độ đến những vùng đất Á Châu. Để đáp ứng với những nền văn hóa khác biệt, những khuynh hướng tư tưởng, đường lối thực hành, và trường phái ra đời, trong số nầy có nhiều khuôn mặt trở nên quan trọng và giữ vững truyền thống của riêng họ. Khi chúng ta nói đến Phật giáo ngày nay, chúng ta nhìn tổng quát qua ba truyền thống lớn, với văn tự, tín điều giáo lý. Đó là truyền thống Phật giáo Á Đông (Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản, và Việt Nam), truyền thống Thervada (Tiểu Thừa) từ Đông Nam Á, và truyền thống Vajrayana (Mật Tông) còn gọi là Tantric (Kim Cang Thừa) dọc theo dãy núi Hy Mã Lạp Sơn.

Đây là việc làm phiên dịchnghiên cứu một phần chính trong tác phẩm MaHa Chỉ Quán do một tỳ khiêu người Trung Hoa là Trí Khải (538-597) viết ra. Chính Trí Khải được tán tụng như một vị Tổ sư sáng lập Thiên Thai Tông, là một trong những truyền thống Phật giáo gây ảnh hưởng lớn và dài lâu vùng Đông Á (1). Như tựa đề quyển luận đưa ra, Chỉ và Quánphương pháp thiền hoặc tu tập thuộc tôn giáo. Được gọi là Đại (MaHa) vì là pháp viên đốn hội nhập Phật giới, là một tư tưởng nổi bật của Phật đạo Đông Á mà Trí Khảithời đại của Đại Sư nhìn như một biểu tượng của Phật pháp (2). Sự kiện nầy, cùng với nội dung văn mạch cực kỳ thâm thúy, không những làm cho MaHa Chỉ Quán trở nên một luận đề tuyệt đỉnh của Thiên Thai Tông, nhưng còn được tất cả những tông phái Phật giáo Đông Á tán tụng. Một biểu tượng lịch sử với lối nhìn cuốn hút sâu thẳm như vậy đã tự giữ một chỗ đứng song song với tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) của Buddaghosa và Tsong-kha-pa Lam-rim chen-mo như một trong những tinh túy của Phật giáo đại cổ.

Tác phẩm nguyên thủy MaHa Chỉ Quán gồm có mười chương, phân ra làm mưòi đề mục- tương đương với khoảng bốn hoặc năm chương dưới dạng Anh ngữ. Quyển sách trong tay bạn là một bản dịch chương thứ nhất của MaHa Chỉ Quán, cùng với lời giới thiệu hùng tráng được một môn đồ của Trí KhảiQuán Đảnh (561-632) viết và đính kèm theo tác phẩm của Thầy mình, cũng là người có trách nhiệm ghi chép và xem xét tác phẩm. Chương mở đầu nầy được gọi là phần đại ý (Synopsis), vì một sự kiện đơn giản là chương nầy tóm tắt và lập lại bố cục, nội dung chủ đề của MaHa Chỉ Quán như một toàn phẩm, với những thay đổi uyển chuyển. Vì đặc tính tự đầy đủ của chương nầy, các nhà nghiên cứu về Phật học Thiên Thai Tông đã xem chương nầy như chính là một tác phẩm. Vì lý do đó, chúng tôi không phải là đã không tìm hiểu chu đáo khi chọn đưa ra chương đại ý nầy như một bản dịch riêng rẽ.

Phần theo sau dựa vào luận án tiến sĩ của Neal Donner viết năm 1976 tại Đại Học Britist Columbia. Vào năm 1989, Peter N. Gregory tu chỉnh khi được Dan Stevenson đưa vào Kuroda Institute’s Classics trong phần Phật học Đông Á, và đồng thời được nhà xuất bản Đại Học Hawaii ấn hành.

Bản dịch của chúng tôi căn cứ vào lần tái bản MaHa Chỉ Quán của Taisho shinshu daizokyo (3), và bốn luận đề- một dưới dạng Hoa ngữ, ba là Nhật ngữ- dưới tựa đề Makasshikan, vol. 5, Bukkyo takei series nos. 22-26 (4). Bốn luận đề gồm có : (1) Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết (Chih kuan fu-hsing ch’uan-hung chueh) từ vị Tổ thứ chín của Thiên Thai TôngTrạm Nhiên (Chan-jan, 711-782) (5), (2) shikan bugyo shiki, từ nhà nghiên cứu nổi tiếng về Tông Thiên Thai vào thế kỷ 20 là Shoshin, (3) Makashikan bugyo kogi, từ sau thời Tokugawa Thiên Thai tỳ khiêu Chiku (1780-1862), và (4) Makashikan bugyo kojutsu, bởi giáo sĩ Thiên Thai Tông thế kỷ thứ 19 là Shudatsu (1804-1884) (6).

Nhiều tham khảo về MaHa Chỉ Quán đương thời dưới dạng Nhật ngữ cũng rất hữu ích. Donner trước tiên ấn hành hai chương Makashikan của Sekiguchi shindai trong những tập Iwanami bunko phổ thông (1966) (7). Từ đó, nhiều bản dịch khác xuất hiện, gồm có bản của Muranaka Yujo (8) và của Nitta Masa’aki (9). Có hai bản tham khảo khác vừa được xuất bản gần đây góp phần vào việc học MaHa Chỉ Quán cũng cần nên để ý. Một bản là Makashikan ichiji sakuin (10) dày cộm liên quan đến từng chữ một của tác phẩm MaHa Chỉ Quán; bản kia liệt kê chu đáo những đoạn kinh được trích dẩn trong MaHa Chỉ Quán (11).

Với sự khuyến khích và cộng tác của Peter N. Gregory, năm 1989, Donner xem lại suốt luận án của mình, đính chính và khai triển nhiều chỗ. Một năm sau đó, Stevenson đối chiếu bản dịch với bản chánh qua từng dòng một, đồng thời tham khảo những luận đề của Thiên Thai Tông với những bản dịch mới ra đời dưới dạng Nhật ngữ. Những điều chỉnh nho nhỏ về chữ dùng và lối hành văn được thực hiện toàn thể bản dịch, nhưng những sửa đổi quan trọng chỉ giới hạnđề mục đã chọn.- xét đoán sự bền bỉ đối với nguyên bản của Donner. Những sửa đổi quan trọng trong chương nói về tứ thiền định liên quan đến phương thức hành trì được Stevenson giới thiệu như phần đặc biệt.
Stevenson cũng sửa đổi phần ghi chú, chú trọng về nội dung của MaHa Chỉ Quán hơn là trong dàn bài nghiên cứu. Vì vậy, những chỗ Donner đã phân đoạngiải thích trước kia, Stevenson đều giới thiệu thêm những phần trích dẩn từ các luận đề của Trạm Nhiên (Chan-jan), và từ những tư liệu khác của Thiên Thai Tông (12).

Những danh từ chuyên biệt vẫn giữ nguyên nghĩa. Một số khác biệt thiết yếu được giữ lại, nơi mà Anh ngữ có thể thông đạt ý nghĩa một cách hữu hiệu. Tuy vậy, một độc giả cẩn thận vẫn không bị sai lạc. Mặt khác, lối dịch từng chữ một giữa Hoa ngữ và Anh ngữ về những danh từ đặc biệt không thể thực hiện đối với những danh từ như fa (dharma, giáo lý, yếu tố tâm vật lý, hoặc chỉ như một vật), nơi mà một tràng ý nghĩa, hoặc là những điệp tự càng tạo sự khó khăn để dừng lại ở một nghĩa tương đương. Thí dụ như khi kiến thức về một danh từ Trung Hoa cổ điển có lợi thì cho vào dấu ngoặc. Phần từ ngữ khó (với những chữ tương đương) cũng được ghi lại theo sau bản dịch nầy.

MaHa Chỉ Quán là một tài liệu một cô đọng khó hiểu và không cân bằng- vì được bắt đầu bằng một số ghi chú của môn đồ Trí KhảiQuán Đảnh từ những bài giảng của Thầy mình. Quanh sự kiện nầy, nhiều sự rời rạc trong văn mạch đã khiến nẩy sinh ra những hệ thống khảo sát và tranh luận giữa các độc giả Thiên Thai Tông trong nhiều thế kỷ. Đối với chúng tôi là những người phiên dịch tác phẩm nếu phiên dịch vội vã bên ngoài hoặc lướt qua những khó khăn nầy mà không chú ý đến lối chú nghĩa theo truyền thống thì sẽ làm mờ nhạt những đường nét từng đóng góp vào việc làm cho tác phẩm trở nên sống động. Vì vậy, những sự rời rạc và phức tạp trong văn mạch (đã được chứng minh là gây trở ngại cho truyền thống Thiên Thai sau nầy) được cẩn trọng giữ lại trong bản dịch và tô đậm trong phần ghi chú. Những chỉ dẩn chính được đánh dấu bằng những dấu ngoặc lớn.

Sự phiên dịch về những danh từ hoặc những lối diễn tả chuyên biệt trừu tượng của Thiên Thai Tông, nếu có thể được, đều dựa vào những định nghĩa trong văn mạch của Trí Khải, hoặc từ những bản kinh và luận đề mà Đại Sư và những người cùng thời biết đến và dùng. Ngoài ra, Trạm Nhiên (Chan-jan) được xem là người đáng tin cậy. Có hai lý do để có thể tin tưởng vào những tác phẩm cũng như những ghi chú của Chan-jan. Thứ nhất là sẽ lỏng lẻo nếu đi vào những tái lập của MaHa Chỉ Quán mà không theo những luận đề của Chan-jan, vì xưa kia thiếu tư liệu, cũng như vô số xung đột mà những luận đề của Chan-jan gặp phải khi tái tạo hình dáng cho tác phẩm hiện nay (13). Thứ hai, sự diễn dịch của Chan-jan về tác phẩm trở thành một diễn dịch theo cùng tiêu chuẩn cho tất cả các vùng Đông Á, tiếp nhận cái hiểu của Chan-jan ít nhất đưa chúng ta bước vào được dòng suối của những khảo cứu về Thiên Thai Tông sau nầy. Chương phụ đề trong bản dịch theo Chan-jan, vì đảm nhiệm hầu hết (nhưng không phải là tất cả) những yếu tố làm nổi bật văn mạch của tác phẩm.

Phần chính của tác phẩm trước hết là lời nói đầu, và ba chương giới thiệu. Reverend Yamada Etai hiện nay là tổng chủ khảo của Thiên Thai TôngNhật Bản đã viết lời nói đầu nầy. Stevenson và Donner viết chương giới thiệu thứ nhất, đưa ra những nền tảng khái niệm của Thiên Thai Tông cũng như phát họa chương Đại Ý trong tương quan với tác phẩm MaHa Chỉ Quán như một khối. Chương thứ hai và chương thứ ba, do Stevenson viết, đưa ra một cái nhìn tổng quát về mặt văn hóatính cách lịch sử của MaHa Chỉ Quán, và đưa vào đề tài liên quan đến vai trò của tác phẩm như một thánh thư của truyền thống Thiên Thai.

Trong việc hoàn thành tập sách nầy, chúng tôi cũng nhận được sự nâng đỡ từ nhiều nơi, bạn hữu, và những người đồng sự. Niềm cảm tạ đặc biệt gởi đến Yamada Etai, vị thống lãnh trường phái Thiên Thai hiện nay ở đỉnh Tỉ Duệ (Mount Hiei), đối với sự giúp đỡ vô cầu của Người dưới hình thức giúp chi phí ấn hành tập sách nầy (cũng như tử tế cung cấp kiểu chữ đẹp dành cho tựa đề sách và dùng vẽ bìa sách); và gởi đến Maezumi Roshi, khoa trưởng Trung tâm Kuroda, đối với lòng luôn ân cần và sự nâng đỡ tinh thần.

Peter N. Gregory, Giám đốc Trung tâm Kuroda, và cũng là Giáo sư phân khoa Tôn giáo, University of Illinois tại Champaign Urbana, đã dành thì giờ xem bản in, các mẫu hình, và giúp in những ấn bản sau cùng. Không có lòng tử tế và khuyến khích của ông, (chưa kể lòng kiên nhẩn), tập sách nầy sẽ khó có thể đầy đủ. Chúng tôi cũng gởi lời cảm tạ đến bà Barbara E. Cohen trong việc giúp sang sửa bản in và phần ghi chú.
Hầu hết thì giờ của Stevenson dành cho tập sách nầy trải qua ở phòng trọ Đại Học Michigan, dưới sự nâng đỡ của University of Michigan Institute for the Study of Buddhist Literature và Chung-Hwa Institute of Buddhist Studies, Taipei. Sự quan tâm của các Giáo sư Luis O. Gonnez, Donald S. Lopez, Jr., và T. Griffith Foulk từ University of Michigan Buddhist Studies Program, đã giúp đỡ nhiều cách.

Tôi, Dan Stevenson, xin được cảm tạ hai người đối với vai trò đặc biệt của các vị trong công việc nầy. Vị thứ nhất là Venerable Sheng-yen, Giám đốc Chung-Hwa Institute of Buddhist Studies, là người đã khuyến khích sự tìm hiểu của tôi trong nhiều năm, không có người, tôi khó thể vào được tận đáy sâu sống động của truyền thống Phật giáo Trung Hoa. Người thứ hai là Miwa, người bạn đời của tôi. Từ bà, sự nâng đỡtình nguyện chia xẻ cùng tôi những lo âu mà một đồ án như trên mang đến, được thành công. Tất cả những gì tôi đã làm được xin dâng tặng cho các bạn.

Và tôi, Neal Donner, xin gởi lời cảm tạ gia đình đã giúp đỡ tôi, người cha quá cố là Otto Donner, là người đã quá thương yêu tôi đến đổi chống đối sự chọn lựa nghề nghiệp phiền hà của tôi; và người hôn phối thứ hai của ông là Maria Donner, là người đã mang niềm vui đến cho ông trong những năm sau cuối; gởi đến Carol Linnell, người vợ trước của tôi, là người chưa từng quên vai trò của một người mẹ; Erich Donner và Rebecca Donner, là người đã dạy tôi nhiều pháp Phật; em trai tôi là Michael Donner, không ngừng thương yêu tôi bất kể những khác biệt; và sau cùng là mẹ tôi, Jane Donner Sweeney và người hôn phối thứ hai của bà là Vince Sweeney, là người đã hòa hợp sự tìm kiếm giác ngộ trong sự gắn bó của gia đình, hơn tất cả những người nào mà tôi đã được gặp. 

Daniel B. Stevenson
Neal Donner

Tham khảo
(Phần phiên âm Hoa ngữ theo hệ thống Wale-Giles) 

1 Truyền thống có tên theo Thiên Thai Sơn tại vùng Đông Nam Trung Hoa, là đỉnh núi trên đó Trí Khải đã thành lập trung tâm đạo tràng đầu tiên của tông phái. Tên gọi qua Hoa ngữ, người Đại-Hàn đọc là Chontae, và người Nhật đọc là Tendai.
2 Lần tái bản sớm nhất của MaHa Chỉ Quán được môn đồ Trí KhảiQuán Đảnh chủ biên, tên thực là ‘Viên Đốn Chỉ Quán’(Yuan-tun Chih-kuan). Sau lần tái bản thứ ba và lần tái bản sau cùng, Quán Đảnh định lại tựa đề như hiện nay.
3 T no.1911. Bản Taisho dựa vào bản in đời nhà Minh, với những bản văn khác đối chiếu với bản đời Tống và thời kỳ Tokugawa.
4 Bukkyo taikei kansekai (Iwada Kyoen, chief ed.) Makashikan, 5 vols., Bukkyo taikei series no. 22-26 (Tokyo: Bukkyo taikei kanseikai, 1912, 1919, 1932, 1933; được Nakayama shobo busshorin in lại năm 1978). Cùng bốn luận đề, với nguyên bản, cũng được Tada Koryu, ed., Tendai daishi zenshu: Makashikan, 5 vols. (Tokyo: Nippon bussho kankokai, d.u.) tái bản.
5 Cũng được thấy trong T no.1912.
6 Chiku và shudatsu cả hai đều là những khuôn mặt tạo nhiều ảnh hưởng liên hệ đến Anraku-ha, một hậu Tonkugawa trên đỉnh Tỉ Duệ (Hiei) tìm lại dấu vết tư tưởng huyền bí của hongaku và phục hồi truyền thống ‘cổ truyền’ của đạo tràng Thiên Thai.
7 Sekiguchi shindai, Makashikan, 2 vols. Iwanami bunko series, 33-309-2 (Tokyo: Iwanami shoten, 1966).
8 Muranaka Yujo, Makashikan, Daijo butten no.6 (Tokyo: Chuo koronsha, 1988).
9 Nitta Masa’aki, Makashikan, Butten koza, no.25 (Tokyo: Daizo shuppansha, 1989).
10 Yamada Kazuo, ed., Makashikan ichiji sakuin (Tokyo: Daisan bunmeisha, 1985).
11 Chugoku bukkyo kenkyukai, ed., Makashikan inyo tenkyo soran (Tokyo: Nakayana shobo busshorin, 1987), trước kia đã ấn hành dưới hình thức tập san Tendai 2-6 (1981-1983). Bảng liệt kê những thamcứu nầy hầu hết từ bốn luận đề có trong Iwada, ed., Makashikan, Bukkyo taikei series nos. 22-26. Những nguồn gốc khác thì vẫn chưa dứt khoát.
12 Những đoạn trích dẩn từ Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết (Chih-kuan fu-hsing ch’uan hung chueh) đươc giới thiệu bằng những chữ như Chan-jan ‘nói’ (hoặc ‘cho rằng’ v.v...), theo sau là phần tham khảo đặc biệt của Taisho. Những nguồn gốc khác gồm có những trước tác của tôn giả Hui-ssu (Tuệ Tư) (515-577), Chih-I (Trí Khải) (538-597), Kuan-ting (Quán Đảnh) (561-632), và Chan-jan (Trạm Nhiên) (711-782), cũng như những khuôn mặt đời Tống như Tri Lễ (Chih-li, 960-1029), và Tuân Thức (Tsun-shih, 963-1032).
13 Đọc Sato Tetsuei về sự sự phát huy MaHa Chỉ Quán được tóm lược trong tác phẩm Tendai daishi no kenkyu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8338)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7629)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8656)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7183)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8472)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7760)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 7043)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8248)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9280)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7979)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8449)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 8105)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9670)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6820)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6857)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 7074)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6712)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7240)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6886)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16364)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7581)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6521)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6985)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7320)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6386)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6766)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5617)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8967)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7434)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22532)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7816)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6880)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 15092)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8671)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13149)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 19123)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 6038)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6287)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 7059)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7376)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8422)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5712)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5901)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5541)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6532)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5986)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7572)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5858)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6780)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6841)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5771)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6281)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5562)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7200)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6135)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7970)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6138)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7156)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 7009)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 7055)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant