Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu Phẩm V: Quy Đại Xứ

25 Tháng Tám 201000:00(Xem: 10427)
Tiểu Phẩm V: Quy Đại Xứ

NGHIÊN CỨUPHIÊN DỊCH ĐẠI PHẨM THỨ NHẤT
MA HA CHỈ QUÁN 
PHÁP MÔN VIÊN ĐỐN
(The Great Calming and Contemplation)
THIÊN THAI TRÍ KHẢI
Neal Donner & Daniel B. Stevenson biên soạn - Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2009

Tiểu Phẩm Năm
Quy Đại Xứ

[20b13] Trong tiểu phẩm V, chúng ta giải thích Chỉ và Quán được thuyết như thế nào nhằm mục đích đưa hành giả về với tánh Không tối thượng của vạn pháp, tức ‘đại xứ’ (ta-ch’u). (1)
[20b14] Một bàn tay dính [nhựa thông] dễ bị dán chặt (2), và khó ra khỏi giấc mơ say. Có những người đóng sách, tự câu thúc [văn] nghĩa, và tuyên bố rằng cái hiểu của riêng họ là đúng. Họ tranh đoạt với người để cướp lấy gạch, sỏi mà tưởng rằng đó là lưu ly (3). Ngay cả những việc thường ngày, những câu [kệ] đơn sơ họ cũng không lãnh hội được (4), làm sao mà họ không lầm khi đến với lý đạo thâm sâu và mật giáo? Đó là lý do tại sao cần phải luận về chỉ quy (chih-kuei). 
[20b17] ‘Chỉ quy’ (5) đưa ra ý nghĩa [nơi chốn] hướng về, như muôn dòng nước đổ vào biển lớn, hoặc những ngọn lửa cháy bừng trên nền trời (6). Hành giả phải phân biệt những ẩn tàng và đến được chỗ thâm sâukhông kinh sợ (7). Hãy như một người cận sự thông minh, luôn đoán biết được nghĩa bóng của những chữ vua dùng (8). Bất cứ những gì các ông nghe được từ pháp [Phật], phải biết rằng không ngoài [bản hoài] đưa [chúng sinh] đến trí tuệ tối thượng (9). Bất cứ những ai hiểu được điểm nầy tức hiểu được ‘chỉ quy đại xứ’ (chih-kuei ta-ch’u)`. ‘Chỉ’ có nghĩa hướng dẩn chính mình đến ba tánh đức [Bồ Đề] (10), và ‘quy’ có nghĩa là hướng dẩn người khác [nhận ra] chính họ: đây là cái gọi là ‘chỉ quy’. Lại nữa, ‘quy’ có nghĩa là tự mình vào được ba tánh đức, và ‘chỉ’ có nghĩa là khiến người khác vào được. Đó là mục tiêu của phẩm ‘Chỉ Quy’.

Ba đức tánh Bồ Đề hoặc Chân Như

[20b23] Giờ đây chúng ta lại giải thích về ‘chỉ quy’ với cả hai nghĩa tổng (tsung) và biệt (pieh). Với một giải thích giản lược thì chư Phật xuất hiện trên đời này do một đại sự nhân duyên (11). [Vì bản hoài nầy, chư vị ứng hiện nhiều thân tướng, dùng [những thân nầy] để hướng dẩn chúng sinh chứng ngộ được pháp thân [vĩnh hằng và vô tướng]. Một khi những chúng sinh nầy đã hiểu được pháp thân, chư Phật và chúng sinh quy về pháp thân. Ngoài ra, chư Phật cũng thuyết giảng nhiều loại pháp khác nhau, đưa chúng sinh về nhất-thiết-chủng-trí (i-ch’ieh-chung-chih) (12). Khi đã có được điều tối thượng nầy, chư Phật và chúng sinh đồng về với bát nhã. Hơn nữa, chư Phật hiển thị nhiều phương tiện, Phật lực, và ứng hóa, giải thoát chúng sinh ra khỏi phiền não của họ. Chư Phật không chỉ giúp một người diệt những trói buộc, mà những trói buộc của tất cả chúng sinh diệt bởi năng lực tịch diệt của Như Lai. Một khi những ràng buộc đã đứt lìa, cả chư Phật và tất cả chúng sinh giải thoát. Kinh Niết Bàn nói: {đưa tất cả con trẻ an nghỉ nơi bí mật tạng (pi-mi-tsang) mà chính Ta đã trú ở đó tự lâu xưa} (13). Đây là sự giản lược hoặc những nét chính về ‘chỉ quy’.
[20c3] Bây giờ là những [giải thích] chi tiết về ba đức tánh: Có ba thân Phật, thân thứ nhất là thân tứ đại, thân thứ hai là thân của [giáo] pháp, và thân thứ ba là thân chân thực. ‘Quy’ là lúc mà các hoạt dụng giáo hóa đã qua, có thể được giải thích như sau: thân tứ đại quy về giải thoát, thân giáo hóa quy về bát nhã, và thân chân thực quy về pháp thân.
[20c6] Chúng ta cũng sẽ nói về ba loại bát nhã: thứ nhất là đạo-chủng-trí (tao-chung-chih), thứ hai là nhất-thiết-trí (i-ch’ieh-chih), và thứ ba là nhất- thiết-chủng-trí (i-ch’ieh-chung-chih) (14). ‘Quy’ có nghĩa là sau khi việc hóa đạo dừng lại, và đạo-chủng-trí quy về giải thoát, nhất-thiết-trí quy về bát nhã, và nhất-thiết-chủng-trí quy về pháp thân.
[20c8] Cũng có ba loại giải thoát: thứ nhất là giải thoát từ chướng ngại của trí phàm phu, thứ hai là giải thoát từ chướng ngại vào giáo thuyết, và thứ ba là giải thoát từ chướng ngại của vô minh (15). Khi đã hoàn tất sự giáo truyền, và quy về đại xứ, hành giả về với giải thoát khi không còn những chướng ngại của trí phàm phu; về với bát nhã khi không còn những trói buộc vào giáo thuyết, và về với pháp thân khi không còn những trói buộc của vô minh. Như vậy, khi nói về những phẩm tánh đặc thù nầy, ‘chỉ quy’ vẫn là quy về mật tạng của ba đức tánh [Bồ Đề hoặc chân như].

Sự không thể suy lường của ba đức tánh

[20c12] Bây giờ [nói về] thực chất của ba đức tánh chẳng là ba cũng chẳng là một nhưng bất khả tư nghị. Tại sao?
Nếu chúng ta nói rằng pháp thân chỉ là pháp thân và chỉ có vậy, thì cái gì chẳng phải là [chân] pháp thân. Vì thế, phải biết rằng pháp thân là thân, trong khi, cùng lúc cũng chẳng phải là thân, là thân mà cũng chẳng là thân. Nếu có người trụ trong Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội (Surangama-samadhi) (16), người ấy hiển lộ tất cả thân và tâm. Như vậy, chúng ta dùng chữ ‘thân’. Một khi cái dụng đã thành tựu [những thân nầy] giải thoát. Trí tuệ chiếu soi những hình tướng vô biênvô tướng, đó là lý do chúng ta nói rằng ‘chẳng phải thân’. Một khi cái dụng đã làm xong, quy về pháp thân. ‘Quy’ có nghĩa rằng đến với sự chứng ngộ ba thân nầy tướng chẳng đồng chẳng khác, và ‘chỉ’ có nghĩa là thuyết giảng cho người rằng ba thân chẳng đồng chẳng khác. Trong cả hai trường hợp, người ấy vào được mật tạng, và đó là lý do tại sao chúng ta nói rằng ‘chỉ quy’.
[20c21] Nếu chúng ta nói rằng bát nhã chỉ là bát nhã, và chỉ có vậy, thì cái đó chẳng phải là [chân] bát nhã. Vì thế, phải biết rằng chân bát nhã, đồng thời, biết, không-biết, và chẳng phải những thứ nầy. Bát nhã ở thứ bậc đạo-chủng-trí là cái trí phổ quát trên thế giới sự tướng (17), đó là lý do tại sao chúng ta dùng chữ ‘biết’. Một khi hoạt dụng đã làm xong, liền quy về giải thoát. Bát nhã ở thứ bậc nhất-thiết-trí có cái biết thâm sâu chân thực (chen), đó là lý do tại sao chúng ta dùng chữ ‘không-biết’. Một khi hoạt dụng đã làm xong, liền quy về bát nhã. Bát nhã ở thứ bậc nhất-thiết-chủng-trí có cái phổ trí của trung đạo, đó là lý do tại sao chúng ta dùng chữ ‘chẳng biết chẳng không biết’. Một khi hoạt dụng đã vẹn toàn, liền quy về pháp thân. ‘Quy’ có nghĩa là chứng ngộ ba [tướng] bát nhã chẳng tướng đồng chẳng tướng dị, và ‘chỉ’ có nghĩa thuyết giảng cho người rằng ba tướng bát nhã nầy chẳng đồng chẳng khác. Cả hai đều vào được mật tạng, và đó là lý do tại sao chúng ta dùng chữ ‘chỉ quy’.
[20c29] Nếu chúng ta nói rằng giải thoát chỉ là giải thoát, và chỉ có vậy, thì đó không phải là [chân] giải thoát. Vì thế phải biết rằng [chân] giải thoát, đồng thời, là giải-thoát, chẳng-giải-thoát, cũng như chẳng phải những thứ nầy. Giải thoát ở thứ bậc phương tiện thanh tịnh (18) điều phục chúng sinh hữu tình nhưng không bị chúng sinh làm ô nhiễm, đó là lý do tại sao chúng ta dùng chữ ‘giải-thoát’. Một khi việc phải làm đã làm xong liền quy về giải thoát. Giải thoát ở thứ bậc viên tịnh thì không nhận tướng chúng sinh hoặc tướng giải thoát, đó là lý do chúng ta dùng chữ ‘không-giải-thoát’. một khi việc phải làm đã làm toàn vẹn liền quy về bát nhã. Giải thoát ở thứ bậc bản nhiên thanh tịnh thì chẳng giải thoát chẳng không giải thoát. Một khi việc phải làm đã làm đến chỗ viên thành liền quy về pháp thân. Hoặc tự chứng ngộ, hoặc thuyết giảng cho người, tam-giải-thoát nầy không có tướng đồng tướng dị. Cả hai đồng thời vào được mật tạng, và đó là lý do tại sao chúng ta dùng chữ ‘chỉ quy’. 

Ba đức tánh và ba sự ngăn ngại

[21a7] Bây giờ nói về ba đức tánh chẳng ‘mới’ chẳng ‘cũ’, nhưng đồng thời cả mới lẩn cũ (19). Tại sao vậy? Khi ba chướng ngại (20) che mờ ba đức tánh, vô minh che mờ pháp thân, tự trói buộc vào pháp môn thì che mờ bát nhã, và vô trí ngăn ngại giải thoát. [Dưới những tình huống nầy], chúng ta gọi tam chướng là ‘cũ’ bởi vì chúng đã có mặt, và chúng ta gọi tam đức là ‘mới’ bởi vì chúng chỉ xuất hiện khi tam chướng không còn. Nhưng [từ lối nhìn rốt ráo] thì tam chướng tức tam đức, và tam đức tức tam chướng. Vì tam chướng chính chúng không khác tam đức, tam chướng tuyệt nhiên không phải là ‘cũ’. Và cũng như vậy, tam đức tuyệt nhiên không phải là ‘mới’. Vì là mới mà cũng không là mới, hành giả tương ưng với tam đức trên từng bước đường [của đạo], và liền phát đại tâm chứng đắc Bồ Đề. Và vì là cũ mà đồng thời cũng không là cũ, tam chướng đối trịhàng phục mỗi bước đường từ sơ phát đại tâm cho đến chứng đắc Phật quả. Vì là cả hai mới và không-mới, cũ và không-cũ, tam đức hiện hữu như lý tánh (li-hsing) vốn có. Nếu có người có được cái hiểu tổng quát rằng tam đức chẳng mới chẳng cũ mà cũng mới cũng cũ, rằng chúng chẳng cùng chẳng khác [với tam chướng], và nếu có người chỉ dẩn cho người khác thuận theo [lý trên]- thì giáo pháp thực sự chỉ quy bí mật tạng (chih-kuei pi-mi-t’sang chung).
[21a 17] Bây giờ chúng ta sẽ giải thích [về tam chướng một cách riêng rẽ]: Vô minh thì gọi là cũ vì đã có trước, trong khi pháp thân hoặc giác ngộ hoặc trí tuệ chiếu soi (vidya) thì gọi là mới vì diệt được vô minh. Nhưng [ở chỗ rốt ráo thì] vô minh tức giác ngộ, và giác ngộ tức vô minh. Vì vô minh chính nó đồng với giác ngộ, vô minh không phải là cũ (có trước), và cũng như vậy, giác ngộ cũng không phải là mới. Tự trói buộc vào pháp môn thì gọi là cũ vì nó có trước, trong khi [thấy được] vô tướng thì đó là mới vì nó bôi xóa sự trói buộc vào hình tướng. Nhưng [ở chỗ rốt ráo thì] tướng tức vô tướng, và vô tướng tức tướng. Cái nào là cái mới và cái nào là cái cũ? Sự ngu tối chỉ cho cũ vì có trước, trong khi hiểu biết chỉ cho mới vì xóa bỏ sự ngu tối. Nhưng [ở chỗ rốt ráo thì] sự ngu tối chính nó đồng vớI hiểu biết, và kiến thức đồng với sự ngu tối. Cái nào là mới và cái nào là cũ ?.
[21a24] Nếu có người chứng đắc được rằng mới và cũ chẳng đồng chẳng khác, hoặc tổng quát hoặc đặc thù, và nếu có người dạy người dạy người khác thuận theo, thì đây gọi là ‘chỉ quy bí mật tạng’. Một cặp đối nghịch như tung và hoành, mở và đóng, thủy và chung (21), tất cả đều được hiểu tương tự.

Ý nghĩa của Chỉ và Quy

[21a 26] [Ý nghĩa của cặp] ‘Chỉ Quy’ cũng có thể được hiểu như sau: chỉ, không-chỉ, chẳng chỉ chẳng không chỉ; quy, không-quy, chẳng quy chẳng không quy- mỗi mỗi [có thể được hiểu] vào mật tạng. Chỗ nầy có thể hiểu tương tự với cách lập luận trước, vì ‘chỉ’ là tự giác, ‘không-chỉ’ là dạy người (22), và ‘chẳng chỉ chẳng không chỉ’ là sự vắng bặt của cả ngã và tha.
[21a 27] Tánh tịch tịnh của tam đức diễn bày ‘chỉ quy’. Từ ngữ nào có thể mô tả được nó? Người ta làm cách nào để dán cho nó một nhãn hiệu? Nếu bắt buộc phải có tên thì chúng ta gọi đó là trung đạo, chân như, pháp thân, chẳng tịch chẳng chiếu (23). Hoặc là chúng ta dùng những danh từ như ‘nhất thiết chủng trí’, ‘đại trí tuệ viên mãn’ (24), ‘bát nhã ba la mật’, ‘trí hoặc quán’; hoặc là chúng ta gán cho nó những nhãn hiệu như ‘Thủ Lăng Nghiêm tam muội’, ‘Đại Bát Niết Bàn’, ‘giải thoát bất khả tư nghị’ (25), hoặc ‘chỉ’.
[21b5] Vì thế, phải biết rằng mỗi mỗi khía cạnh trong toàn bộ [giáo lý] về phẩm tánh, ngữ ngôn, và thần thông [thị hiện] đều vào mật tạng.
[21b6] Chỉ quy nầy: Là gì? Ở đâu? Là ai? (26) . Đường ngôn ngữ bị cắt đứt (27), Cái tâm hành kia đã bị diệt (28). Tịch diệt, như hư không. Đây là cái chúng ta gọi là ‘chỉ quy’. Những điều nầy sẽ được nói chi tiết trong đại phẩm X (29).

HẾT

Tham Khảo

1 Kogi (2.89) nói rằng hành và chứng rốt ráo đưa hành giả về nơi không còn đường phân chia giữa nhân (thực hành) và quả (chứng ngộ), giữa ngã và tha.
2 Từ kinh Niết Bàn, T12.761a 17-b5. Đọc kinh A Hàm (Samyuktagama, T2.173b-c). Trong bản Pali (Samyutta-nikaya, 47.1.7) là đoạn ‘kinh Khỉ’ (Makkata-sutta), do Rhys-Davids và Woodward dịch trong tác phẩm ‘The Book of the Kindred Saying’, 5.127-128. Những ai còn quẩn quanh trong vòng trói buộc và trong những lối thấy nghiêng ngữa sánh với chú khỉ không thể ngừng sờ tay vào chất keo mà người thợ săn đã gài bẫy. Một tay của chú đã bị dính keo, và khi chú cố sức thoát ra thì cả tay kia, hai chân, và miệng đều bị keo dán chặt. Rồi thì người thợ săn trở lại, dùng cây sào kéo chú khỉ khốn khổ kia lên, sẳn sàng một món ăn cho buổi chiều. Chú khỉ tượng trưng cho phàm phu (prthagjana) chưa có được cái nhìn chân chính vào pháp Phật, người thợ săn tượng trưng cho tà quái, và hủ keo tượng trưng cho lòng mong cầu ái dục. Trong kinh Niết Bàn có một tỷ dụ nói rộng về khuynh hướng [dụng tâm] của phàm phu- tức trói buộc và thiên lệch- giảng sai lạc giáo lý của Phật và Bồ Tát về tâm, nhân duyên, và nhân quả.
3 Từ kinh Niết Bàn, T12.617c.
4 Chan-jan (T46.215b27-8) phê bình ở đây rằng: {Cũng có những người vào được lý thậm thâm nhưng chưa có được thực nghiệm, như những vị thiền-sư-đốn-ngộ (tun-wu ch’an-shih) từ Tao-shu thuộc đạo tràng K’uai-chi, có thể biết được pháp thâm sâu nhưng lại hoàn toàn không biết những vấn đề thường nhật}.
5 Chan-jan (T46.215b29-c2) nói: {‘Bản văn’ chỉ cho giáo pháp, ‘Chỉ’ là ý nghĩa hoặc sự diễn đạt. ‘Quy’ là hướng về. ‘Chỉ quy’ có nghĩa là nơi mà giáo pháp hướng về}.
6 Chan-jan (T46.215c2-3) nói tương tự: {Nước và lửa sánh với giáo hoặc pháp, lối quy về như được nói trong bản văn, và biển lớn với trời xanh tượng trưng cho các nơi chốn mà giáo pháp phát sinh}.
7 Chan-jan (T46.215c3-4) nói: {Nếu cái hiểu của các ông thâm nhập vào mật giáo, và hiểu được nguyên lý thâm sâu, thì các ông sẽ không làm phí phạm giáo lý siêu việt, cũng không làm trở ngại những nguyên lý thông thường}.
8 Dựa vào một tỷ dụ trong kinh Niết Bàn, T12.662b. Ở đây Phật so sánh một vị vua ra lệnh mang saindhava đến cho vua. Trong Phạn ngữ, chữ saindhava không rõ nghĩa, có thể đến từ chữ sindhu (sông, Ấn hà, biển, hoặc thành phố Sind), và cũng có thể là ‘thuộc về biển, con ngựa thành Sind, hoặc một người từ thành Sind, muối ở Sind, một bình chứa nước v.v... Kinh đưa ra bốn nghĩa khả dĩ: muối, bình chứa nước, nước, và ngựa. Chỉ có người cận thần thông minh mới có thể đoán biết ông vua nầy muốn vật gì trong bốn thứ theo thời điểm: muối nếu vua đang ăn, bình nước nếu vua muốn uống, nước nếu vua muốn rửa, và ngựa nếu vua muốn ra ngoài. Cũng vậy, người học pháp Phật thông minh biết rằng khi Phật thuyết (Tiểu Thừa) rằng vạn phápvô thường, khổ, vô ngã, và bất tịnh; Phật muốn dạy, một cách thâm sâu rằng tánh của vạn pháp là thường, lạc, ngã, và tịnh.
9 Sarvajnabhumi. Hoặc nền tảng hoặc sự chứng đắc Phật trí- tức Bồ Đề. Danh từ nầy xuất hiện trong kinh Pháp Hoa (đọc T9.19a).
10 Pháp thân, bát nhã, và giải thoát, theo kinh Niết Bàn (T12.616b8-14) trình bày tam Bồ Đề thường trụ hoặc giác ngộ.
11 Gián tiếp nói đến đoạn kinh nổi tiếng trong phẩm ‘Phương Tiện’ kinh Pháp Hoa (T9.7a 21-28; Hurvitz, 30): {Chư Phật, Thế Tôn xuất hiện trên thế gian nầy vì muốn chúng sinh nghe được tri kiến Phật, và giúp chúng sinh thanh tịnh. Chư Phật xuất hiện... khai thị, ngộ, và nhập tri kiến Phật}.
12 Sarvakarajnata- trí thứ ba và là trí cao nhất nói trong Pancavimsati và Đại Trí Độ Luận, thường được tôn giả Tuệ TưTrí Khải nói đến như những thí dụ trong tam đế. Đọc T25.257c-260c; Lamotte, Traité, 4.1758-1759. Nhất Thiết Chủng Trí là trí Phật và Bồ Tát bất thối chuyển, là những bậc, theo Thiên Thai Tông đã mở Phật nhãn và vào thẳng trung đạo. Trí thứ nhất- Nhất Thiết Trí (sarvajnata) là trí tuệ vào Không, hợp với trí giải thoát của Nhị ThừaBồ Tát sơ phát tâm. Trí thứ hai- Đạo Chủng Trí (margajnata) là trí của Giả đế, hợp với trí tuệ phương tiện thiện xảo của Bồ Tát Đại Thừa.
13 T12.616b8. Đoạn văn kinh tiếp tục nói về bí mật tạng tương ưng với ba đức tánh (pháp thân, bát nhã, và giải thoát) trong sự hòa hợp viên mãn. Chúng chẳng đi theo đường tung hoặc đường hoành nhưng hiện diện bình đẳng vẹn toàn như ba dấu gạch làm thành chữ {i} trong văn tự Siddham, hoặc như ba con mắt trên trán của Mahesvara.
14 Trí tuệ thứ ba nói trong ghi chú 12 ở trên.
15 Không rõ xuất xứ về ba chướng ngại nầy. Cũng không thấy trong những chú giải và luận đề của Chan-jan, Kogi, Shiki, Kojutsu.
16 Trong kinh xưng tán cùng tên (T no. 642), đây là tam muội thứ nhất trong 108 đại tam muội ghi trong Đại Trí Độ Luận (và Pancavimsati), T25. 396b27 và 398c27 nói rằng Bồ Tát biết tướng trạng, sự tương ứng, và chiều sâu của tam muội nầy như một tướng quân biết được sức mạnh của binh sĩ. Cũng vậy, một Bồ Tát đã chứng được tam muội nầy thì không một thiên ma, phiền não ma nào có thể làm hại, như một vị chuyển luân vương... có thể vào tất cả mọi nơi không trở ngại. Thiên Thai Tông so sánh với sự chứng đạt được trung đạo, nhất thiết chủng trí, mở được Phật nhãn, vào sơ trụ (của Viên giáo). Đọc ‘Tiểu Chỉ Quán’, T46.472c9-473a 10.
17 Kogi (2.95) nói rằng không lầm lỗi trong sự nhận thức về sự tướng.
18 Loại thứ nhất trong ba loại giải thoát, hai loại kia là (b) viên tịnh giải thoát, và (c) bản nhiên thanh tịnh giải thoát. Trí Khải nói về những loại giải thoát nầy nhiều nơi trong Maha Chỉ Quán (T46.140b) cũng như trong ‘Duy Ma Kinh Huyền Sớ’ (Wei-mo ching huan-shu, T38.553c2) và ‘Kim Quang Minh Huyền Nghĩa’ (Chin-kuang-ming huan-i, T46.140b) là ‘tam Niết Bàn’. Cũng như Maha Chỉ Quán ở đây, cả ba trường hợp đều được nói đến trong những phần nói về ba đức tánh (pháp thân, bát nhã, và giải thoát).
19 Chan-jan (T46.216a 23-25) và Kogi (2.96) đều nói rằng ‘tam chướng’ nên đi cùng với ‘tam đức’ ở đây. Chan-jan nói: {[Ở đây] có phần luận tổng quát về tam đứctam chướng, nơi mà những chướng ngại và tánh đức trong sự tương phản [được cho thấy] là không khác, mà đồng thời cũng là khác. Nếu có người luận về chướng và đức theo cái nhìn về lý (li), chúng là bất nhị, và như vậy không có [bất cứ sự phân chia] giữa ‘mới’ và ‘cũ’.
20 Tam chướng (san-chang) nói đến ở đây không khác avarana-traya hoặc phiền não chướng, nghiệp chướng, và sự tương tự thường thấy trong Maha Chỉ Quán, ngoài ba chướng ngại đề cập đến ở trên như vô trí, trói buộc vào hình tướng, và vô minh. Chan-jan (T46.216b2) có ý rằng ba chướng ngại tương tự với tam hoặc : kiến hoặc, tu hoặctrần sa hoặc (làm chướng ngại phương tiện hạnh của Bồ Tát), và căn bản vô minh (làm chướng ngại trung đạo). Lối nhìn nầy dường như căn cứ vào ‘Pháp Hoa Huyền Nghĩa, T33.742b28-c18’.
21 Chan-jan (T46.216b4-5) nói: {Khi đưa ra tam đức trong đoạn văn, pháp thân phải đi trước, rồi đến bát nhã, và sau cùng là giải thoát. Đây gọi là theo đường ‘tung’. Nhưng khi luận từng phần một, theo ý nghĩa để một được phát huy và phân tích như ba, thì là theo đường ‘hoành’. Đây cũng là cái chúng ta gọi là ‘quảng’. Ba thu về một là cái chúng ta gọi là ‘hiệp’. Khởi tâm cầu giác ngộ là ‘thủy’, và chứng quả Bồ Đề là ‘chung’. Hoặc [thuyết pháp tại] vườn nai là ‘thủy’, và [nằm xuống giữa] hai tàng cây là ‘chung’}.
22 Kogi (2.98) nói: {‘không-chỉ’ vì giáo pháp phải ứng hợp với những mê vọng của họ (thay vì theo chân lý). 
23 Tương tự như Chỉ và Quán được hiểu ở đây là kết quả của tu tập hơn là một dụng cụ để đến chỗ cứu cánh.
24 Tên gọi trí Phật, trong kinh Pháp Hoa (T9.32b29).
25 Từ phẩm kinh cùng tên trong kinh Duy Ma Cật, T14.546b-c. Một Bồ Tát đạt đến giải thoát có thể đặt núi Tu Di vào một hạt cải, biển lớn vào một lỗ chân lông, nắm cả vũ trụ trong bàn tay, và khiến thời gian dài ngắn theo ý muốn- vì Bồ Tát đã chứng ngộ được tánh rỗng lặng của tất cả những điều nầy.
26 Kogi (2.100) nói rằng câu thứ nhất trong ba câu hỏi nầy xóa bỏ danh (chủ quan), câu thứ hai xóa bỏ sắc (khách quan), và câu thứ ba xóa bỏ ngã ( nhìn như hiện hữu). Không có gì còn lại.
27 Sarva-vada-carya-uccheda.
28 Citta-pravrtti-sthiti-nirodha.
29 Những bài giảng về phẩm X, như nói trên, đã không bao giờ được hoàn thành.

Thư mục

A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận của Thế Thân, Huyền Trang dịch, T vol. no. 1558.
A Tỳ Đạt Ma Tỳ Bà Sa luận, Huyền Trang dịch, T vol. 27, no.1545.
A Xà Thế Vương Vấn Ngũ Nghịch Kinh, Pháp Cự dịch, T vol. 14, no. 508.
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh, Bồ Đề Đăng (Bodhidipa) dịch, T vol. 17, no. 839.
Thiền Môn Quy Thức, Hoài Hải, T 51.250c-251b.
Trường A Hàm Kinh, Giác Minh (Buddhayasas) và Trúc Phật Niệm (Chu Fo-nien) dịch, T vol. 1, no. 1.
Thành Thật Luận, Cưu Ma La Thập dịch, T vol. 32, no. 1646.
Thất Phật Bát Bồ Tát Sở Thuyết Đà La Ni Thần Chú Kinh, không rõ người dịch vào đời Đông Tấn, T vol.21, no. 1332
Già Da Sơn Đỉnh Kinh, Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruci) dịch, T vol. 14. no. 465.
Thiên Thủ Nhãn Đại Bi Tâm Chú Hành Pháp, Tri Lễ (Chih-li), T vol. 46, no. 1950.
Trí Giả Đại Sư Truyện Luận, Phật Tổ Thống Kỷ, T49. 440a-c.
Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết, Trạm Nhiên, T vol.46, no. 1912.
Chỉ Quán Nghĩa Lệ, Trạm Nhiên, T vol. 46, no. 1913.
Chỉ Quán Đại Ý, Trạm Nhiên, T vol. 46, no. 1914.
Kim Quang Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Cưu Ma La Thập, T vol. 8, no. 235.
Kim Quang Bát Nhã Ba La Mật Kinh Luận, Thế Thân, Bồ Đề Lưu Chi dịch, T vol. 25, no. 1511.
Kim Quang Minh Sám Pháp, Trí Khải, Quốc Thanh Bách Lục, T46. 796a-b.
Kinh Lễ Pháp, Trí Khải, Quốc Thanh Bách Lục, T46. 794a-795a. 
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Đạo Nguyên, T vol. 51, no. 2076.
Triệu Luận, Tăng Triệu, T vol. 45, no. 1858.
Tịnh Độ Thập Nghi Luận, Trí Khải, T vol. 47, no. 1961.
Thỉnh Quán Thế Âm Sám Pháp, Trí Khải, Quốc Thanh Bách Lục, T46.795b-796a.
Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Kinh, Nan Đề dịch, T vol. 20, no. 1043.
Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ, Quán Đảnh, T vol. 39, no. 1800.
Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh Luận, Lặc Na Ma Đề (Rattnamati) dịch, T vol. 31, no. 1611.
Cưu Ma La Thập Pháp Sư Đại Nghĩa, Cưu Ma La ThậpLô Sơn Huệ Viễn, T vol. 45, no. 1856.
Chư Pháp Vô Hành Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T vol. 15, no. 650.
Chú Duy Ma Cật Kinh, Tăng Triệu, T vol. 38, no. 1775.
Xuất Diệu Kinh, Trúc Pháp Niệm dịch, T vol. 4, no. 212.
Giác Ý Tam Muội, Trí Khải. (Đọc Thích Maha Bát Nhã Ba La Mật Kinh Giác Ý Tam Muội). 
Trung Luận, Long Thọ, Cưu Ma La Thập dịch, T vol. 30. No. 1564.
Trung A Hàm Kinh, Tăng Già Đề Bà dịch, T vol. 1, no. 26.
Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa, Tuệ Tư, T vol. 46. no. 1926.
Pháp Hoa Kinh Sớ (Đạo Sinh), HTC vol. 150.
Pháp Hoa Kinh Nghĩa Ký, Pháp Dung, T vol. 33, no. 1715.
Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Trí Khải. Đọc Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa.
Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Tiêm, Trạm Nhiên, T vol. 33, no. 1717.
Pháp Hoa Tam Đại Bộ Bổ Chú, Tùng Nghĩa, HTC vols. 43-44.
Pháp Hoa Tam Muội Sám Nghi, Trí Khải, T 46, no. 1941.
Pháp Hoa Thập Diệu Bất Nhị Môn Thị Châu Chỉ, Nguyên Thanh, HTC 100.
Pháp Hoa Văn Cú, Trí Khải. Đọc Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú.
Pháp Hoa Văn Cú Ký, Trạm Nhiên, T34. 1719.
Phương Đẳng Sám Pháp, Trí Khải, T46.796b-798c.
Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp, Trí Khải, T46.1940.
Phương Đẳng Đà La Ni Kinh. Đọc Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh.
Phật Tổ Thống Kỷ, Chí Bàn, T49.2035.
Phú Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện, Đàm Diệu, T50.2058.
Tượng Pháp Quyết Nghi Kinh, T85. 2870.
Tiểu Chỉ Quán, Trí Khải. Đọc Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu.
Tâm Kinh. Đọc Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh.
Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu, Trí Khải, T46. 1915.
Hoa Thủ Kinh, Cưu Ma La Thập, T16.no.657.
Hoa Nghiêm Kinh. Đọc Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.
Hoằng Minh Tập, Tăng Hựu, T52.2102.
Nhân Vương Kinh. Đọc Nhân Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh.
Nhân Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T8.245.
Như Lai Bí Mật Tạng Kinh, không rõ người dịch, T17.821.
Như Lai Tạng Kinh. Đọc Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng Kinh.
Thụy Ũng Kinh. Đọc Thái Tử Thụy Ũng Bổn Khởi Kinh.
Quán Âm Dung Tâm Giải, Tri Lễ. Đọc Tứ Minh Tôn Giả Giáo Hành Lục, T46. 865c-868a.
Quán Phật Tam Muội Hải Kinh, Phật Đà Bạt Đà (Buddhabhadra) dịch, T15.643.
Quán Tâm Luận, Trí Khải, T46. no. 1920.
Quán Tâm Luận Sớ, Quán Đảnh, T36. No. 1921.
Quán Hư Không Tạng Bồ Tát Kinh, Đàm Ma Mật Đa (Dharmamitra) dịch, T9. No. 277.
Quán Phổ Hiền Kinh. Đọc Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh.
Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh, Đàm Ma Mật Đa dịch, T9. 277.
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, Trí Khải, T37.1750.
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, Thiện Đạo, T37.1753.
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Diệu Tông Sao, Tri Lễ, T37.1751.
Quốc Thanh Bách Lục, Quán Đảnh, T46.1934.
Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh, Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra) dịch, T16.670.
Lập Chế Pháp, Trí Khải, đọc Quốc Thanh Bách Lục T46.793b-794a.
Lục Tức Nghĩa, Hạnh Mãn, HTC 100.
Lục Diệu Pháp Môn, Trí Khải, T46.1917.
Maha Chỉ Quán Phụ Hành Giảng Nghĩa, Chiku.
Maha Chỉ Quán Phụ Hành Giảng Thuật, Shudatsu.
Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật Kinh, Cưu Ma La Thập dịch T14.454.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T9.262.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa, Trí Khải, T36.1716.
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú, Trí Khải, T34.1718.
Maha Chỉ Quán, Trí Khải, T46.1911.
Maha Chỉ Quán Phụ Hành Sưu Yếu Ký, Trạm Nhiên, HTC. 99
Maha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T8.223.
Maha Bát Nhã Ba La Mật Đại Minh Chú Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T8.250.
Maha Tăng Kỳ Luật, Phật Đà Bạt ĐàPháp Hiển dịch, T22.1425.
Ban Châu Tam Muội Kinh, Chi Lâu Ca Sấm (Lokaksema) dịch, T13.418.
Hiền Hộ Bồ Tát Kinh, không rõ người dịch, T13.419.
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, Huyền Trang dịch, T8.251.
Bi Hoa Kinh, Đàm Vô Sấm dịch, T3.157.
Biệt Lập Chúng Chế, Tuân Thức, HTC 101.309-311a.
Phổ Lễ Pháp, Trí Khải. Đọc Quốc Thanh Bách Lục, T46.795a-b.
Bồ Tát Địa Trì Kinh, Đàm Vô Sấm dịch, T30.1581.
Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh, Trúc Phật Niệm, T24.1485.
Tam Quán Nghĩa, Trí Khải, HTC 98.
Tam Báo Luận, Lô Sơn Huệ Viễn. Đọc Hung-ming-chi, T52.34b-34c. 
Sách Định Chỉ Quán, Lương Túc, HTC 99.
Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh, Cầu Na Bạt Đà La dịch, T12.353.
Thích Thiền Ba La Mật Thứ Đệ Pháp Môn, Trí Khải, T46.1916.
Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Long Thọ. Cưu Ma La Thập dịch, T26.1521.
Thích Môn Quy Kính Kinh, Đạo Tuyên, T45.1896.
Thích Maha Bát Nhã Ba La Mật Kinh Giác Ý Tam Muội, Trí Khải, T46.1922.
Thập Bất Nhị Môn, Trạm Nhiên, T46.1927.
Thập Bất Nhị Môn Chỉ Yếu Sao, Tri Lễ, T46.1928.
Thập Tụng Luật, Công Đức Hoa (Punyatara) và Cưu Ma La Thập dịch, T23.1435.
Thập Địa Kinh Luận, Thế Thân. Bồ Đề Lưu Chi dịch, T26.1522.
Sử Thiệp Diên Khánh Tự, Tri Lễ. Đọc Tứ Minh Tôn Giả Giáo Hành Lục, T46.909a-910a.
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T15.642.
Tứ Giáo Nghĩa, Trí Khải, T46.1929.
Tứ Phần Luật, Giác Minh Sa MônTrúc Phật Niệm, T22.1428.
Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T15.586.
Tứ Minh Tôn Giả Thực Lục, Tắc Toàn. Đọc Tứ Minh Tôn Giả Giáo Hành Lục, T46.919b-920a.
Tứ Minh Thập Nghĩa Thư, Tri Lễ, T46.1936.
Tứ Minh Tôn Giả Giáo Hành Lục, Tông Hiểu soạn, T46.1937.
Tứ Niệm Trụ, Trí Khải, T46.1918.
Tùy Thiên Thai Trí Giả Đại Sư Biệt Truyện, Quán Đảnh, T50.2050.
Tùy Tự Ý Tam Muội, Tuệ Tư, HTC.98.
Đại Trí Độ Luận, Long Thọ. Cưu Ma La Thập dịch, T25.1509.
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Phật Đà Bạt Đà dịch, T9.278.
Đại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh, không rõ người dịch, T3.156.
Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng Kinh, Phật Đà Bạt Đà dịch, T16.666.
Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh, T13.397. Dharmaksema dịch.
Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh, Pháp Chúng, T21.1339.
Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh, Pan-tz’u-mi-ti dịch, T19.945.
Đại Hoa Nghiêm Trưởng GiảVấn Phật Na La Diên Luật Kinh, T14.547.
Đáp Hoàn Huyền Minh Báo Ũng Luận, Lô Sơn Huệ Viễn. Đọc Hung-ming-chi, T52.33b-34a.
Đại Bát Niết Bàn Kinh, Dharmaksema dịch, T12.374.
Đại Bát Niết Bàn Kinh, Huệ Nghiêm dịch và hiệu đính, T12.375.
Đại Bát Niết Bàn Kinh Tập Giải, Bảo Lượng, T37.1763.
Đại Bảo Tích Kinh, Bồ Đề Lưu Chi dịch, T11.310.
Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh, T32.1666.
Đại Thừa Nghĩa Chương, Tịnh チnh Huệ Viễn, T44.1851
Thái Tử Thụy Ũng Bổn Khởi Kinh, Chi Khiêm, T3.185.
Thiên Trúc Biệt Tập, Huệ Quán HTC 101.
Thiên Trúc Tự Thập Phương Trụ Trì Nghi, Tuân Thức HTC101.306b-309a.
Thiên Thai Thiền Lâm Tự Tỵ, Lương Túc. Đọc Phật Tổ Thống Kỷ, T49.438b-c.
Thiên Thai Giáo Tùy Hàm Mục Lục, Tuân Thức, HTC 101.263b-266b.
Thiên Thai Chỉ Quán Thống Lệ, Lương Túc. Đọc Phật Tổ Thống Kỷ, T49.438c-440a.
Thiên Thai Tứ Giáo Nghi, Đế Quán, T46.1931.
Tạp A Hàm Kinh, Cầu Na Bạt Đà La dịch, T2.99.
Thiên Thai Tổ Thừa Ký, Tuân Thức, THTC 101.262b-263b.
Tạp A Tỳ Đàm Tâm Luận, Pháp Cứu tôn giả (Dharmatrata) soạn. Tăng Già Bạt Ma (Sanghavarman) dịch, T28.1552.
Tăng Tu Giáo Uyển Thanh Quy, Tự Khánh, HTC. 101.
Tăng Nhất A Hàm Kinh, Tăng Già Đề Bà (Sanghadeva) dịch, T2.125. 
Tối Diệu Thắng Định Kinh, Quan Khẩu Chân Đại , Tokyo: Iwanami bunko, 1969. Thiên Thai Chỉ Quán Nghiên Cứu.
Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T14.475.
Duy Ma Kinh Huyền Sớ, Trí Khải, T38.1777.
Vị Tằng Hữu Nhân Duyên Kinh, Đàm Cảnh dịch, T17.754.
Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Maha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Mạn Đà La Tiên (Mandrasena) dịch, T8.232.
Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh, Tăng Già Bà La (Sanghabara) dịch, T14.468.
Văn Thù Sư Lợi Vấn Bồ Đề Kinh, Cưu Ma La Thập dịch, T14.464.
Ngũ Phần Luật, Phật Đà Thập (Buddhajiva) và Trúc Đạo Sinh dịch, T22.1421.
Vô Lượng Nghĩa Kinh, Đàm-Ma-Già-Đà-Da-Xá (Dharmagatayasas) dịch, T9.276.
Ương Quật Ma La Kinh, Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra) dịch, T2.120.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8339)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7629)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8657)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7183)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8472)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7760)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 7043)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8248)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9280)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7979)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8449)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 8105)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9671)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6821)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6857)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 7074)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6712)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7240)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6886)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16365)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7581)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6521)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6987)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7320)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6386)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6768)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5617)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8968)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7434)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22532)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7817)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6880)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 15093)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8672)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13149)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 19125)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 6042)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6290)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 7059)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7377)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8422)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5712)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5901)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5541)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6532)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5986)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7573)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5858)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6780)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6843)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5771)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6283)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5564)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7206)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6135)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7970)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6141)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7156)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 7009)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 7055)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant