Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Chủ Đề Nghiệp Báo

09 Tháng Mười 201000:00(Xem: 4134)
02. Chủ Đề Nghiệp Báo

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC NGƯỜI CƯ SĨ
Pháp sư Thông Kham
Mahà Medhivongse
Nhà xuất bản Tôn Giáo 2000

Chủ đề NGHIỆP BÁO

-oOo-

HỎI: Thưa ông, tôi làm mất thì giờ của ông nhiều, nhưng tôi thấy rằng, tôi chưa thông suốt, xin ông cho phép tôi hỏi thêm. Thưa ông, người đã phạm vào một điều răn nào và bị tù đày rồi, theo tôi nghĩ người ấy đã trả xong tội. Không biết đối với đạo còn có tội nữa không? Nghĩa là phải sanh vào một ác đạo nào để chịu tội nữa không?

ĐÁP: Nói về Nghiệp thì không ai có quyền, hay có thể định đoạt được số mạng của người khác được. Như nói: Nghiệp ấy trả quả chừng ấy cũng đủ rồi, hoặc chưa đủ phải trả thêm nữa. Chỉ có đức Thế tôn mới thấy rõ nghiệp ấy còn trả quả nữa hay không. Ngài thấy bằng tuệ giác của ngài. Tôi xin nhắc ông một lần nữa: Ngài thấy bằng tuệ giác chớ không phải Ngài có quyền cho tội phước cho một chúng sinh nào hết, và Ngài cũng không thể ngăn đón nghiệp giùm cho một chúng sinh nào cả.

Ngài chỉ dạy chúng sinh lánh điều dữ làm việc thiện mà thôi. Khi người làm điều ác thì phải bị thọ khổ, nếu hành theo Thiện nghiệp thì sẽ được hưởng an vui.

Tóm lại, nghiệp ấy còn trả quả hay không đều do nơi hành động của người trong cuộc. Vì vậy nên nói về nghiệp không có ai có thể nhất định như thế này thế nọ, vì nó thuộc về hậu quả sự tạo tác của con người. Tôi muốn nói là do nơi tác ý khi tạo nghiệp.

 

HỎI: Thưa ông, xin cho tôi biết dứt khoát rằng: "Nghiệp ấy còn trả quả nữa không? "

ĐÁP: Như tôi đã nói: Không ai có thể giải quyết dứt khoát được rằng: Anh A hay anh B bị ở tù là trả xong tội ấy rồi, nghiệp ấy không còn hay trả quả nữa. Tại sao? Vì nghiệp có nhiều thứ khác nhau và sự trả quả không giống nhau. Có nghiệp khi đã trả quả kiếp này xong, còn theo đến nhiều kiếp sau. Có nghiệp chỉ trả quả trong một kiếp này rồi thôi không theo trả nữa.

 

HỎI: Thưa ông, vậy trong 12 cái nghiệp có cái gọi là Quá nghiệp vậy nghĩa là gì?

ĐÁP: Quá nghiệp Phạn ngữ gọi là Ahosikamma có nghĩa là Nghiệp trả quả xong rồi không theo trả quả nữa. Ví như người chủ nợ lấy đủ vốn lời rồi không theo đòi thêm nữa.

Sở dĩ nghiệp ấy không theo đòi nữa vì có nhiều nguyên nhân:

1. Vì nghiệp ấy không phải là Garuhamma, nghĩa là đại nghiệp có nơi cũng gọi là Trọng nghiệp; nên chi không đủ sức theo dính bên người để trả quả thêm. Hơn nữa khi người phạm tội biết ăn năn cải tạo đời mình, nghĩa là biết tu hành tinh tấn nên nhờ Thiện nghiệp ấy chạy mau nên nghiệp kia không thể chạy theo kịp trả quả. Đây không có nghĩa là mất luôn, nghiệp ấy vẫn cố gắng chạy theo nhưng không có cơ hội thuận tiện nên không trả được. Nghĩa là khi nào đến Niết bàn mới có thể nói Quá nghiệp.

2. Hoặc nghiệp ấy là đại nghiệp, nhưng kịp thời ăn năn lo tu hành tinh tấn đắc A La Hán quả và đã nhập Niết bàn, nghiệp ấy không còn cơ hội trả quả. Như tích Ngài vô não. Khi còn là tướng cướp, Ngài giết hằng muôn người.

Sau khi xuất gia đầu Phật, Ngài ráng tu hành tinh tấn đắc A La Hán, nhập Niết bàn, thì những nghiệp Ngài đã tạo chỉ trả quả cho Ngài rất nhẹ khi Ngài chưa đắc A la hán quả thôi. Nghiệp ấy trả quả như thế này, khi Ngài xuất gia đi khất thực bị người dùng đá ném Ngài lỗ đầu chảy maùu, y rách, bát bể. Tôi không ngụ ý nói khi đắc A La Hán quả không bị trả quả, nhưng nhờ sự tu hành của Ngài nên Nghiệp ác theo chưa kịp thôi.

Xin ông nên nhớ rằng: Quá nghiệp không có nghĩa là không trả quả, nhưng có nghĩa là: Sở dĩ nghiệp ấy chưa trả quả hay không trả vì theo không kịp thôi.

 

HỎI: Thưa ông, người điên làm quấy có tội hay không? Theo ý kiến cá nhân tôi hành động của người điên làm không có tội vì người ấy không có trí nhớ, không phân biệt được phải quấy, hay nói theo giáo lý nhà Phật gọi là có Tác ý chắc là khỏi tội.

ĐÁP: Theo lời Phật dạy nên tin ở Nghiệp, vì có câu Phật ngôn Cetanàham bhikkhave kammam vadàmi, nghĩa là: Này các thầy Tỳ Khưu, Như Lai dạy rằng Tác Ý là Nghiệp. Cũng nên hiểu rõ câu Phật ngôn rằng: Con người làm việc gì cũng do nơi tác ý làm chủ động. Người thiếu trí nhớbiết mình thì làm việc gì mặc dầutác ý cũng khó mà có kết quả mỹ mãn được.

Theo Phật giáo Nghiệp chia ra làm 12 điều khác nhau. Một trong 12 điều ấy có Nghiệp, Phạn ngữ gọi là Kattatàkamma ta cắt nghĩa là Hoặc Nghiệp là hành động thiếu chú tâm. Những hành động như thế đem lại kết quả rất ít. Nếu đem việc này so sánh với việc làm của người điên vẫn còn hơn.

 

HỎI: Thưa ông, tôi vẫn còn nghi ngờ từ Cetanà dịch là Tác ý. Thưa ông, không biết từ gọi là Tác ý aáy có ý nghĩa thế nào, có thể nói là Cố tâm, Quan tâm hay Chú tâm được không?

ĐÁP: Được, có thể có ý nghĩa như vậy.

 

HỎI: Nếu vậy thì tôi tin rằng: Người điên cũng có chú tâm, Cố tâm. Như khi người điên giận hay oán ghét ai, họ đánh chửi, hoặc giết hại người ấy chớ không làm hại người khác. Vì vậy tôi tin rằng: Người điên cũng có tác ý, nhưng thiếu trí nhớbiết mình như người thường. Vậy người điên làm như thế có tội hoàn toàn như người thường không?

ĐÁP: Sự thật không như lời ông buộc tội, mặc dầu người điên ấy cố ý thật, nhưng họ vẫn thiếu trí nhớbiết mình, và chính người ấy cũng không hề biết mình làm như thế là sai, là có tội. Vì lẽ thiếu hai pháp trên nên người điên không bị hậu quả nặng bằng người không điên. Ta có thể nói nghiệp mà người điên đã tạo vẫn có hậu quả ít hơn nghiệp mà người thường tạo gọi là Hoặc Nghiệp.

Nếu nói về điên, theo Phật dạy trong tạng luật, thầy Tỳ khưu điên không phạm giới. Đức Thế Tôn dạy: Khi mà người điên không còn phân biệt được phân với vật thực mới gọi là điên và không bị phạm luật.

 

HỎI: Xin trở lại vấn đề Nghiệp. Khi nghiệp điên mà có dư sót thì kiếp sau vẫn còn sanh làm người điên. Nhưng hiện nay, khoa hoïc thịnh hành phần đông người ta ít tin nếu không muốn nói là ít người nhìn nhận có nghiệp quá khứ. Vậy xin ông vui lòng giảng giải cho thaáy rõ Nghiệp, và nếu có thể xin đem Nghiệp của Phật giáo ra so sánh với khoa học để cho dễ lãnh hội?

ĐÁP: Trước hết ta hãy thấy rằng luật nhân quảnghiệp báo trong Phật giáo rất hợp lý và dễ chứng minh. Người Phật tử không bao giờ tin nơi một vị chúa tể hay vị thần thánh nào có oai lực ban phước hay đem tội đến cho chúng sinh. Ngoài cái định luật tự nhiên của Nghiệp báo không còn có một lý do nào chính đáng khác đáng tin hơn. Đức Thế Tôn có dạy sự an vui hay đau khổchúng ta đang thọ đây là do nơi nghiệp hay có thể nói do hành động của ta trong quá khứ. Như năm rồi làm ruộng nên năm nay mới có gạo ăn. Nhưng có nhiều người còn thắc mắc khi thấy lắm kẻ làm ác mà vẫn giàu sang hạnh phúc, còn người tu hành hay lương thiện trái lại bị hoạn nạn nghèo khổ. Điểm này là nguyên nhân chính làm cho người đời hoài nghi về luật nghiệp báo như trường hợp vừa nêu. Vậy ông nghĩ sao?

 

HỎI: Lời tôi hỏi ông trên đây là do sự nghi ngờ của phần đông bạn tôi. Riêng tôi thì tôi nghi ngờ rằng: Nghiệp quá khứ trả quả, nhưng không thấy đưa ra bằng chứng cụ thể nào cho thấy rõ: đây là do nghiệp quá khứ, hay nghiệp hiện tại. Ví dụ như người kia đang làm ăn chân chính thì bị bắt về tội do người khác phao vu. Vậy xin hỏi tội của người ấy là do nghiệp quá khứ hay do nghiệp hiện tại?

ĐÁP: Người bỗng dưng bị phao vu, hay bị tai nạn như chết bất đắc kỳ tử đều do nơi nghiệp quá khứ. Còn nghiệp hiện tại là khi người ấy làm chuyện bất chính thật sự nên bị chính quyền xử lý.

 

HỎI: Thưa ông, còn biết bao nhiêu người làm chuyện phi pháp hay tội lỗi mà họ vẫn an vui phú quý như thường thì sao?

ĐÁP: đó là nghiệp chưa trả quả nên người ấy chưa thọ khổ, ví như người mới vừa trồng caây có chất độc, nhưng chưa tới thời kỳ trổ bông sinh trái. Hơn nữa, người ấy tạo nghiệp xấu, nhưng không phải là Garukamma nghĩa là Trọng nghiệp hay có chỗ cũng gọi là Đại nghiệp như giết cha, giết mẹ, làm cho Phật chảy máu, chia rẽ tăng và dâm hãm Tỳ khưu ni. Chỉ có ngũ nghịch đại tội này mới bị trả quả ngay tức khắc trong kiếp hiện tại này.

 

HỎI: Thưa ông, phóng sanh chim cá có phước thật hay không? Theo ngụ ý của tôi, có phước. Vì mình thấy thương hại nó, cứu chuùng nó ra khỏi cảnh giam cầm hay sắp bị giết. Nhưng tôi có một người bạn, khi thấy phóng sanh chim ông ta phản đối, vì ông ta cho rằng: Phóng sanh như thế thật không có phước; mà mình vô tình bị những người buôn bán chim cá lợi dụng, vì họ biết người tu Phật thường hay phóng sanh, hoï càng bắt nhiều thêm để bán thủ lợi. Như ta thấy, mấy ngày rằm lớn chim bán rất chạy và rất đắt. Như vậy, có phải là vô tình ta làm khổ thêm cho loài thú chăng?

ĐÁP: Theo câu hỏi của người bạn ông, ta cần biết tác ý của người mua. Nếu vì lòng Từ, thương hại loài vật nên mua để thả, để giải phóng chúng nó, như vậy là có tác ý lành rồi thì tự nhiên được phước chẳng sai. Thật ra người mua không bao giờ có ý giúp cho người bán thú làm giàu, mà cũng không cố ý xúi bảo bắt thêm để bán mà buộc người ấy vào tội vô tình bị lợi dụng hoặc làm khổ cho nhân loại.

 

HỎI: Thưa ông, cũng người bạn này nói với tôi rằng, họ không tin nghiệp. Vì khi anh ta còn nhỏ, rượu chè be beùt, là đứa con xấu nhất trong gia đình. Anh ấy xấu đến độ dám lấy trộm đồ của cha mẹ ông bà đem cầm bán mà không bị ai nghi ngờ chi hết. Tới nay anh ấy cũng chẳng thấy có tội gì, vẫn bình an như thường. Vì lẽ ấy, anh thường bảo tôi rằng: Không có tội phước gì hết, chẳng qua là chuyện "nhát ông Kẹ" cho trẻ nít sợ mà thôi, hoặc tội phước là chuyện may rủi ở đời.

Xin ông vui lòng chỉ bảo tôi, phải trả lời thế nào cho bạn tôi biết rõ đâu là tội, đâu là phước. Anh ta thật tốt, nhưng chỉ không tin gì hết mà thôi.

ĐÁP: Theo Đức Phật dạy, khi người đã làm một điều gì, tức là đã tạo nghiệp, mà khi đã tạo nghiệp thì không bao giờ mất, nó vẫn theo bên ta như hình với bóng. Nghiệp dầu Thiện hay Ác đều vẫn theo dính bên ta để chờ cơ hội thuận tiện xen vào trả quả. Đức Thế Tôn có dạy nghiệp thiện ác ví như một chuồng bò nhỏ mà nhốt nhiều con bị bỏ đói khát mấy ngày, khi mở chuồng chúng chen nhau mà ra. Nghiệp cũng vậy chúng giành nhau chen nhau để trả quả. Nghiệp nào mạnh thì chen vào trước quả trả trước, yếu theo sau. Sở dĩ mà nghiệp của người bạn ông chưa trả quả vì nó không phải là trọng nghiệp, nó chưa đủ sức mạnh trả quả sớm đó thôi. Bao giờ nghiệp lành của ông ấy yếu đi, nghiệp xấu sẽ trả quả, chừng đó ông ấy sẽ than van rên xiết.

Phần nhiều người chỉ nhìn vào hiện tại, không nghĩ đến vị laiquá khứ nên khó phân biệt được nhân quả.

Về thời gian trả quả ta có thể chia nghiệp ra làm 4 loại khác nhau:

1)- Dittavedaniyakamma nghĩa là Hiện nghiệp, ý nói Hiện nghiệp là nghiệp làm trong kiếp này trả quả liền trong kiếp hiện tại. Mau là trong thời gian bảy ngày. Nếu có trễ lắm, cũng không qua khỏi kiếp này. Như ông Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) làm hại Phật, hay nàng Chinh-cha (Cincà) phao vu Đức Phật ở với bà đến mang thai. Hai người này bị đất sụp rút đi.

Hiện nghiệp trả quả sớm hay muộn còn do nơi nhiều nguyên nhân khác. Người làm phước hay tội có kết quả lành hay dữ đều do nơi những nguyên nhân sau đây:

- Gatisampatti nghĩa là Hợp cảnh. Có ý nói chúng sinh tạo nghiệp này phải có thân ngũ uẩn như Người, Trời hay súc sinh.

- Kàlasampatti: Hợp thời. Nghĩa là người tạo nghiệp nhằm thời cơ thuận tiện đưa đến. Như sinh lại nhằm lúc Đức Phật còn tại thế, còn có Thánh tăng. Và gặp nhằm lúc có Phật Bích chi, và được cúng dường đến các vị ấy mà nhằm lúc quí Ngài vừa xả Diệt thọ vô tưởng định. Nơi đây tôi xin nhắc sơ lược tích của một cô bé giữ vườn bắp (ngô).

Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, có một cô làm rẫy bắp, cô ta thật nghèo, phần lớn đời sống của cô ăn ngô khoai ít khi được ăn cơm. Ngày kia cô đi thăm rẫy, cô mang theo bắp rang để ăn trừ cơm. Khi ấy, Đại đức Ca Diếp, sau khi nhập định được bảy ngày, liền xả định. Ngài thường dùng trí tuệ xem coi chúng sinh nào có duyên và trong sạch cúng dường cho Ngài, nhất là người ấy phải là người thật nghèo. Vì Ngài có hạnh nguyệnđộ người nghèo.

Thấy cô làm rẫy bắp có duyên với Ngài, khi gặp Ngài thì cô sẽ phát tâm trong sạch cúng dường vật thực cho Ngài, nên Ngài liền đi ngay đến nơi rẫy bắp.

Khi cô gái làm rẫy bắp trông thấy ngài Đại đức thì phát tâm trong sạch, nghĩ rằng: "Lắm khi ta không có vật gì để dâng cúng đến Đại đức thì ta lại gặp Ngài, còn khi ta có vật thực lại không gặp được Ngài. Hôm nay thật là ngày hạnh phúc cho đời ta, là đã sẵn có vật cúng dường mà lại gặp được Đại đức. Vậy ta phải làm việc lành này."

Nghĩ xong cô liền đến đảnh lễ Đại đức dâng bắp rang và nói: Xin Ngài mở lòng từ bi tế độ kẻ nghèo khó.

Ngài Đại đức ngừng lại nhận gói bắp rang của cô. Ngài cầu cho cô được như ý nguyện. Sau khi được Ngài Đại đức thọ lãnh vật cúng dường, cô lấy làm mừng rỡ. Cô đi ngay đến chòi giữ bắp, trên đường đi cô lấy làm mừng vui vì cô thấy đã làm được việc lành. Khi đang vui vẻ như vậy cô bị một con rắn độc cắn chết tại bờ rẫy bắp. Do nhờ phước báo rất sạch dâng cúng đúng vào vị thánh tăng vừa xuất đại định, nên cô được sinh về cõi Trời Đao lợi ở trong một tòa lầu đẹp lộng lẫy, trước hai bên cửa nhà có cây to bông trắng và rụng xuống những hoa toàn bằng ngọc đẹp. Cô được sinh vào cõi Đao lợi như người nằm mơ. Cô nghĩ lại vì lẽ nào cô được sinh vào cõi này, cô biết rằng do nhờ sự cúng dường đúng nơi của cô.

Tích này trong Kinh Pháp Cú còn dài, nhưng tôi chỉ tóm lại một đoạn ngắn. Nhắc lại đây để ông thấy rằng: Làm phước phải hội đủ nguyên nhân mới có kết quả mỹ mãn trong kiếp hiện tại. Như cô làm rẫy bắp có vật thực cúng dường, có tâm trong sạch muốn cúng dường, và gặp đúng người đáng thọ lãnh của cúng dường, nên khi cô làm phước được kết quả liền.

- Paohgasampatti - Phải có sự cố gắng làm việc lành mà mình đã nhất định làm không hề thoái chuyển.

Khi người làm việc thiện hay ác mà có đầy đủ ba nguyên nhân kể trên, nghiệp ấy sẽ trả quả kiếp hiện tại này.

2)- Uppajjavedaniyakamma nghĩa là hậu nghiệp. Đây là nghiệp chờ trả quả kiếp sau nếu chưa hội đủ nguyên nhân để trả quả thì nó đợi trả quả kiếp thứ hai kế kiếp sau ấy.

3)- Aparàparavedanìyakamma nghĩa là tùy nghiệp. Đây là nghiệp traû quả kế kiếp thứ ba, thứ tư, thứ năm, nghĩa là nghiệp này theo mãi đến bao giờ nhập Niết Bàn.

4)- Ahosikamma nghĩa là quá nghiệp. Nghiệp này tôi đã giải rồi, nhưng nơi đây xin nói sơ lược để ông nhớ, nghiệp này có thể trả quả hay không là do sự tu hành tinh tấn của người, nghiệp ấy không đủ sức theo kịp để trả quả.

 

HỎI: Thưa ông, trong giáo pháp của nhà Phật có dạy cách nào làm cho nghiệp ấy không thể trả quả được, khi mà người đã lỡ tạo rồi hay không?

ĐÁP: trong Phật pháp cũng có phương pháp chỉ cho những người biết hối hóa ăn năn hồi đầu hướng thiện, ráng lo tinh tấn tu hành thì cũng chưa gọi là quá trễ. Nếu người biết lỗi, ráng tu theo đúng lời Phật dạy, khi người ấy còn trong thời kỳ hưởng quả của thiện nghiệp, thì nên cố gắng hàng ngày bồi đắp công đứcthiện nghiệp cũng như người nhìn thấy thủy triều dâng lên rất mạnh, nếu không đắp đê ngăn thì mình không thể sống được. Người nhờ phước báo ngăn đón nên khỏi bị tai nạn, hay bị quả báo, cũng như người đắp đê ngăn nước lũ vậy. Nói đây, tôi xin nhắc lại ông rằng: Tôi không phủ nhận nghiệp ác mất, hay có luật bù trừ, mà tôi chỉ nói ngăn ngừa, hay chạy trốn ác nghiệp mà mình đã lỡ tạo thôi, ý tôi nói sở dĩ người chưa bị ác nghiệp trả quả nhờ sự tu hành của mình, nghiệp ác không đủ sức theo kịp như chó săn rượt chưa theo kịp mồi thôi.

Điều này cũng có thể, ví như người cùng đi chung với bọn hung ác mà không hay biết chi hết, khi biết rồi lật đật lên ngựa chạy thật mau để tránh xa bọn ác. Bọn ác dù có cố gắng để rượt theo bắt lại, nhưng người kia nhờ có ngựa hay nên chạy thoát khỏi bọn hung ác ấy. Khi chạy đến chân thành người ấy vào thành, bọn ác kia không dám vào, vì trong thành có quan quân canh phòng cẩn mật, luật lệ nghiêm minh, kẻ ác bị khai trừ nên không dám đến gần.

Bọn hung ác ấy ví như tội ác, con ngựa của người ấy cưỡi là thiện pháp. Người kia chính là tâm kinh sợ tội lỗi, còn thành kia tôi xin ví như Niết bàn. Vì Niết bàn là nơi đi ra ngoài tam giới, nơi hoàn toàn trong sạch, tội lỗi không thể nào lẫn lộn được.

 

HỎI: Thưa ông, thí dụ của ông làm cho tôi hiểu rõ. Nhưng tôi còn thắc mắc con ngựa ấy do những gì cấu tạo thành, tôi ráng mua một con để cưỡi chạy thoát khỏi nơi này.

ĐÁP: Tôi sẽ biếu ông một con, nếu ông bằng lòng nuôi dưỡng nó. Ngựa này là ngựa vô giá, không có nơi nào bán. Nhưng Phật giáo chỉ biếu không cho người cần giải thoát.

Ngựa quý ấy là:

1/- Pubbekatapunnatà - tư cách của người đã làm việc lành để dành từ khi trươùc. Đây cũng có nghĩa là người nên cố làm điều lành từ bây giờ để dùng ngày vị lai. Những việc lành mà người cần phải làm ấy là: Bố thí, trì giới, tham thiền, nhẫn nại, từ bi. Những pháp này hợp lại ví như mình ngựa, chắc chắn mạnh, người có thể ngồi rất êm chạy xa không mỏi.

2/- Patirupadesavàso - Nên ở trong xứ nên ở, nghĩa là ở trong xứ có Phật pháp, có các bậc thiện trí thức dạy người làm lành lánh dữ.

3/- Saddhammasavana - Nghe lời chỉ bảo của các vị trí thức ấy và ráng vâng giữ hành theo.

4/- Sappurisapassayà - nên xa kẻ ác và phải thân cận với các bậc tri thức.

5/- Attasammàpanidhi - Cư xử theo lẽ chính, có nghĩa là hành theo chính đạo mà các bậc thiện trí thức, nhất là Phật, đã dạy.

Bốn pháp sau này ví như bốn chân của ngựa quý.

(Năm pháp vừa kể trên có giải rõ trong quyển "30 Pháp Hạnh Phúc" cùng một tác giả đã ấn tống.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22972)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22480)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21770)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23333)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21193)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21773)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23614)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20432)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21950)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24760)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18994)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23995)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26528)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38142)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19991)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19052)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23176)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22927)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18714)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15850)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19690)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19958)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16922)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26084)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20101)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18864)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24069)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29154)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22906)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30970)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21014)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26862)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26269)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15842)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19865)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28980)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20695)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19455)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30515)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36441)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33247)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35580)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20997)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21928)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25268)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25804)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant