Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Chủ Đề Tứ Đế

09 Tháng Mười 201000:00(Xem: 4206)
05. Chủ Đề Tứ Đế

GIẢI ĐÁP THẮC MẮC NGƯỜI CƯ SĨ
Pháp sư Thông Kham
Mahà Medhivongse
Nhà xuất bản Tôn Giáo 2000

Chủ đề TỨ ĐẾ

-oOo-

HỎI: Trước kia tôi chưa học Phật tôi không cảm thấy khổ là gì hết. Càng đi sâu vào Phật giáo thì càng thấy tất cả những gì cuõng đều khổ, tội. Tôi càng nghĩ càng kinh sợ.

Thưa ông, đành rằng Đạo Phật là Đạo diệt trừ khổ. Nhưng tôi vẫn còn hoài nghi: Không biết chắc rằng có diệt tận được khổ hay chăng. Vì tôi vẫn còn thấy tất cả hàng Phật tử thậm chí đến hàng Tăng lữ là bậc hành Phạm hạnh cao thượng nhất mà cũng vẫn thấy còn khổ?

ĐÁP: Ông đề cập đến vấn đề "Khổ" vậy chính ông có hiểu rõ tiếng khổ chưa? Khổ nghĩa là gì? Có bao nhiêu loại khổ? Khi nào khổ sinh lên? Và do nguyên nhân nào mới phát sinh khổ? Phàm người muốn diệt khổ phải biết nguyên nhân sinh khổ cho thật chắc, thật rõ mới tìm thaáy phương pháp diệt khổ.

 

HỎI: Thưa ông, người đời không ai không bị khổ, ai ai cũng phải trải qua cảnh khổ, không khổ này cũng khổ kia, ai cũng biết vậy. Nay ông lại hỏi tôi: Khi nào khổ sinh lên? Do nguyên nhân nào? Thưa ông hỏi vậy để làm gì?

ĐÁP: Sở dĩ mà tôi phải hỏi vậy để biết ông quan niệm cái khổ ra sao? Theo lời Phật dạy: Muốn hiểu rõ cái khổ phải học cho biết thật rốt ráo, phải mất rất nhiều thì giờ, chớ không phải giản dị như ông tưởng. Vậy ông có thể kể sơ cho tôi biết vài cái khổ mà ông cho là khổ được không?

 

HỎI: Được, nhưng nếu tôi nói hơi sai hay lạc đề xin ông tha lỗi cho. Vì chắc rằng ý kiến của tôi không phù hợp với Phật giáo. Theo quan niệm của tôi, khổ là sự bực bội trong tâm, khổ ấy sở dĩ xâm nhập vào tâm do một sự việc hay hoàn cảnh bên ngoài như thất vọng. Khổ vì thiếu thức ăn, thiếu mặc, vợ bệnh, con đau...Thưa ông theo tôi hiểu khổ như vậy có đúng không?

ĐÁP: Cũng tạm gọi là đúng, nhưng tôi thiết tưởng nên sắp lại cho có thứ tự. Theo như ông vừa kể thì khổ có rất nhiều, nhưng chung quy không ngoài cái khổ của thân và cái khổ của tâm. Bốn trọng khổ trên đời này là:

- Khổ sinh.
- Khổ già.
- Khổ đau.
- Khổ chết.

Ngoài ra còn có:

- Sống chung với người mình không ưa cũng khổ.
- Xa lìa người mình yêu thương quý mến cũng khổ.
- Muốn mà không toại nguyện cũng khổ.
- Tóm lại chấp trước thân ngũ uẩn này là khổ.

Để hiểu rõ Khổ, Đức Thế Tôn có dạy chia khổ ra làm 3 phương diện khác nhau là:

- Dukkhavedanà, Thọ Khổ.
- Dukkhalakkhanà, Trạng thái của Khổ.
- Dukkha àriyasacca, Khổ diệu đế.

 

HỎI: Thưa ông, để dễ theo dõi trước hết xin ông định nghĩa dùm tiếng Dukkha, Khổ.

ĐÁP: Để phân tích Phạn ngữ "Dukkha" ta thấy như thế này: "Du" có nghĩa là khó, "Kha" có nghĩa là chịu đựng. Theo văn phạm, chữ Kha đứng sau như vậy thêm vào chữ K nữa để cho dễ đọc. Vậy khi ráp lại thành chữ là Dukkha có nghĩa là vật gì làm cho ta khó chịu đựng nổi, vật ấy gọi là Dukkha, ta gọi là Khổ... Người hiểu như thế theo phương diện cảm giác gọi là Vedanà, nghĩa là Thọ.

Nếu hiểu về phương diện chân lý trừu tượng thì Du có nghĩa là vật gì đáng khinh miệt (không đáng cho chúng ta bám víu), Kha là hư vô, rỗng không.

Thế gian là biển khổ, và như vậy là đáng cho ta khinh miệt không đáng cho ta quan tâm, bám víu vào. Thế gian không phải là thực tế mà là ảo ảnh, là hư vô, là rỗng không. Vậy Dukkha theo nghĩa này là hư vô, không đáng cho ta bám víu, hay nói một cách khác cho dễ hiểu hơn là thế gian này không có gì đáng cho ta miệt mài hay ham mê, theo nó chỉ làm cho ta buồn rầu đau khổ thôi.

 

HỎI: Xin ông cho biết Phật giáo có dạy phương pháp nào để diệt trừ những cái khổ mà ông đã kể trên không?

ĐÁP: Dĩ nhiên là phải có, nếu không có dạy phương pháp diệt khổ thì ai tu theo Phật làm gì.

Đức Thế Tôn dạy về Thọ khổ rất tóm tắt, vì Ngài cho cái khổ này không phải là cái khổ vĩ đại. Tiếng "Vedana" có nghĩa nhận lấy. "Dukkha-vedana" có nghĩa là nhận lấy một đối tượng bên ngoài vào làm cho tâm ta khó chịu. Vậy Thọ khổ là lãnh một trạng thái không vui từ bên ngoài như mất của, xa người thương yêu, gần người thù ghét, bệnh hoạn, bị hiếp đáp v...v

Đức Thế Tôn ví những cái khổ vừa kể trên như bệnh ghẻ ngoài da, không quan hệ lắm. Những cái khổ cỏn con này người đời ai ai cũng có thể tự chữa cho mình được bằng cách này hay cách khác. Thí dụ như bị mất tiền là khổ, nhưng tiền ấy có thể kiếm lại được, khi được tiền lại là vui ngay. Xa người thân thuộc mến yêu là khổ, nhưng lúc gặp lại thì vui ngay. Bệnh hoạn là khổ khi hết bệnh là vui lại liền.

Cách chữa bệnh ở trên chỉ tạm thời mà thôi vì các nỗi khổ kia rồi sẽ còn trở lại làm khổ chúng ta nữa. Tại sao vậy?

Vì những cuộc vui vừa kể trên là những cái vui tạm bợ, sau những cái vui ấy còn đầy nỗi khổ do phiền não tạo nên, những cái vui mà chúng ta hưởng hàng ngày đây chưa hẳn là vui hoàn toàn vĩnh cửu theo lời Phật dạy.

Đáng tiếc thay! Người đời chỉ thấy được cái thọ khổ và cách chữa trị nông cạn như trên nên phần đông đều xem thường cái khổ. Do đó họ còn phải chịu trầm luân mãi mãi trong bể luân hồi khổ.

Chỉ có đấng Đại Giác Ngộ, Thánh nhân, Chư Độc Giác Phật mới nhìn thấy và biết rõ trạng thái thậm thâm vi diệu của pháp Tứ đế trong đó có Khổ diệu đế. Nhờ các ngài trông thấy cả bề sâu và bề rộng của các pháp ấy nên các Ngài mới diệt được taän nguồn gốc của cái khổ và cũng do đó mà các Ngài giải thoát được.

Muốn hiểu rõ ý nghĩa hai cái khổ trọng đại vừa nói là Dukkhalakkhana - Trạng thái của khổ, và Dukkha àriyasacca - Khổ diệu đế, ông còn cần phải biết thêm vài chi tiết phụ thuộc về đời sống của con người như:

- Đời sống là gì?
- Tại sao có đời sống?
- Đời sống từ đâu đến?
- Sau cùng đời sống sẽ đi về đâu?

Khi mà người hiểu rõ được bốn điều này bằng trí tuệ thật sự thì người ấy mới biết rõ cái khổ.

 

HỎI: Thú thật với ông tôi chưa từng xem kinh hay nghe đến bốn điều ấy bao giờ, xin ông vui lòng giải thích luôn cho tôi được biết?

ĐÁP: Xin ông ráng nghe cho kỹ những điều này vì rất là quan trọng. Đức Thế Tôn dạy người mà chưa biết đời sống là gì, người ấy chưa biết thế nào là khổ, và cũng không bao giờ có đầy đủ nghị lực để chống lại với khổ, thì làm sao mà giải thoát cho được.

Ngài cũng có dạy thêm rằng: Ở đâu có đời sống thì ở đó có khổ. Khổ không phaûi từ bên ngoài đến mà chính nó ở trong lòng người. Dầu có muốn trốn cũng không khỏi. Đời sống của con người, chắc chắn sẽ có khổ. Một đôi khi cũng có vui, nhưng chỉ vui thoáng qua trong chớp mắt thôi, cái vui thật ngắn ngủi, mà rất khó gặp được. Vì lẽ ấy nên cõi đời này mới gọi là bể khổ. Đức Phật ví người sống trên cõi đời này chẳng khác nào người cầm đuốc chạy ngược chiều gioù, bị lửa táp vào tay vào mặt luôn luôn. Đôi khi có ngọn gió thổi tạt qua một bên, được mát một chút. Lúc đó tạm hưởng đươïc một chút an vui, lại quên mất cái khổ đi.

Để cho ông dễ nhận thức hơn, tôi xin nhắc lại tích của một thầy Bà la môn vấn nạn Đức Thế Tôn.

Thầy Bà la môn hỏi: "Thưa thầy Cồ Đàm, trong thế gian này cái khổ nào vĩ đại hơn hết?"

Thay vì đáp lời, Ngài lại hỏi thầy Bà la môn rằng:

- Vậy riêng thầy, thầy nghĩ khổ nào vĩ đại hơn hết?

- Theo tôi nghĩ, khổ chết có lẽ là vĩ đại hơn hết.

- Cái chết chưa phải là cái khổ vĩ đại tuyệt đối.

- Nếu không phải thì chắc là sự tiêu hoại tài sản chứ gì?

- Cũng không phải.

- Vậy chắc là sự chia lìa kẻ thân yêu nhất của mình?

- Điều này chỉ là cái khổ rất nhỏ phụ thuộc mà thôi.

- Không phải vậy thì nó là cái khổ đói khát chăng?

- Cũng chưa đúng.

- Thôi, vậy là cái khổ trong A Tỳ Địa ngục rồi.

- Cũng không phải nữa.

Khi ấy thầy Bà la môn không còn biết phải trả lời cách nào nữa, đành phải thú nhận sự ngu dốt của mình và cầu xin Đức Thế Tôn chỉ dạy cho.

Đức Thế Tôn mới phán rằng: Cái khổ vĩ đại của chúng sinh là còn tái sinh lại nữa.

Ý Đức Phật muốn dạy, vì người còn có thân này nên mới còn có tất cả những thứ khổ. Ngài thường nhắc nhở chúng sinh rằng: Thân này là ổ khổ, cái nôi sinh ra khổ, nguồn gốc của mọi sự khổ.

Sở dĩ cái khổ còn đến với chúng sinhchúng sinh còn chấp cái ta, là cái thân này. Cái khổ theo lời Phật dạy không phải là do từ bên ngoài mà chính là do lửa Phiền não ở bên trong nó thiêu đốt tâm ta.

Một khi tâm ta còn phiền não thì nó còn tối mê. Con người không sáng suốt thì còn tạo nghiệp, nhất là nghiệp Ác, vì đó mà phải tái sinh luân hồi để trả quả, và chịu khổ triền miên.

Giờ đây ông đã hiểu thế nào là khổ và nguồn gốc của khổ rồi thì chúng ta có thể đề cập đến phương pháp diệt tận khổ của Đức Thế Tôn đã giáo truyền.

Như ông đã biết Đức Thế Tôn thường được suy tôn là bậc "Tối thượng y vương" vì các môn thuốc của Ngài trị được tận gốc các chứng bệnh của chúng sinh.

Ở đây cũng thế, phương pháp diệt khổ của Đức Phật dạy là phải diệt tận ngay nơi nó phát khởi. Nói một cách khác là phải dập tắt ngay phiền não trong thâm tâm mình, đừng để nó phát sinh lên.

Đức Thế Tôn dạy rất nhiều phương pháp diệt khổ hay dập tắt lửa khổ, lửa phiền não trong thâm Tâm. Ta có thể nói tất cả lời dạy trong Tam Tạng chỉ có một mục tiêudiệt khổ. Chẳng hạn 37 nhân sanh quả Bồ đề.

Nhưng để cho ông dễ nhớ hơn, tôi có thể tóm lại là chung quy không ngoài ba pháp là Giới, Định, Tuệ.

- Tu Giới là để giữ gìn không cho phiền não phát sinh trong tâm.
- Tu Định là để đè nén không cho phiền não bên trong bộc khởi lên được.
- Tu Tuệ là để diệt trừ tất cả mọi phiền não trong tâm.

Người mà Tâm không còn phiền não là người có Minh sát tuệ, người ấy nhận thấy rõ rệt thực tướng của vạn vật trên cõi đời này (kể cả thân ta) là Vô thường, Khổ nãoVô ngã nên không mê luyến mến tiếc nữa. Người như vậy phát tâm chán nản, xa lìa trần tục, đoạn tuyệt Ái dục, không còn tạo nghiệp, sẽ hết khổ vì khỏi phải tái sinh lại sau khi chết.

 

HỎI: Thưa ông, tại sao cả ba pháp Giới, Định Tuệ, Đức Phật dạy đều là phương pháp diệt khổ nơi Tâm, mà không có phương pháp nào diệt khổ của Thân?

ĐÁP: Vì trên thực tế nếu Tâm hết khổ, được an vui thì thân cũng được an vui, không cần đề cập đến làm gì.

 

HỎI: Theo tôi thiết nghĩ vật chất có trước tinh thần (Tâm). Vậy Tâm không quan trọng bằng Thân (Vật chất). Sở dĩ con người phải khổ vì thiếu vật chất nghĩa là thiếu những nhu cầu cho bản thân. Nếu ta có đủ cung phụng cho thân, thì nó đâu còn đau khổtinh thần sẽ được an vui thơ thới.

Vậy xin ông cho biết theo Phật giáo dạy Thân có trước hay Tâm có trước.

ĐÁP: Đối với giáo lý nhà Phật về vấn đề Thân có trước Tâm, hay Tâm có trước Thân là "không quan trọng". Dù Thân có trước hay Tâm có trước, điều chắc chắncon người vẫn phải khổ vì nó. Dầu ta có phí mất bao nhiêu công lao khó nhọc, thì giờ quý báu để nghiên cứu tìm ra và biết được Tâm hay Thân cái nào có trước, nó cũng chẳng đem ích lợi gì đến ta, vì nó không giúp ta diệt được khổ.

Nếu ông thiên về sắc thì ông bảo sắc có trước, sắc là vật quan trọng. Nhưng thử hỏi sắc mà không có Tâm vậy Sắc có tồn tại đươïc hay không?

Có Thân mà không có Tâm vậy cái thân ấy có thể gọi là người được không?

Theo lời Phật dạy thì Tâm là chủ Thân. Tất cả những sự cảm xúc vui buồn, sướng hay khổ đều do Tâm mà có. Nếu không có tâm thì không có gì hết.

Tóm lại vui hay khổ đều do nơi Tâm mà có, vì vậy nên khi ta khổ, ta nên tìm xem nguyên nhân nào làm cho Tâm ta khổ, sau đó ta mới có thể dập tắt được tận nguồn gốc cái khổ.

Con người khi thấy thiếu thốn nhu cầu vật chất cho họ, họ cho là khổ, và lại lầm tưởng rằng: nếu cung phụng đầy đủ nhu cầu cho bản thân tất nhiên hết khổ, được an vui ngay.

Nhưng họ không ngờ rằng làm như thế không công hiệu lắm mà theo một hai trường hợp lại làm gia tăng sự thèm muốn nữa, xin quí vị hãy nghĩ coi vật đó là gì.

Sự cung cấp vật thực cho Tâm phải chăng là tạm thời thỏa mãn sự đòi hỏi trong một gian đoạn nào đó mà thôi. Nhưng trái lại, cái bệnh xu hướng và ham mê theo dục trần, gọi chung là ái dục, chẳng những không thuyên giảm mà nó lại ngấm ngầm gia tăng mãnh liệt.

Lòng tham vọng của con người vô bờ bến, không bao giờ biết đầy, mà cũng chẳng có chỗ nào chứa cho đủ, vì vậy nên con người không thể làm sao cho thoả mãn lòng khát vọng của mình. Nếu hôm nay được một, mai muốn có thêm hai, mãi mãi đến nơi không có số đếm, mặc dù vậy mà Tâm cũng chẳng biết chán.

Người thấy thiếu tiền thật là khổ, nhưng mà khi đã được tiền rồi vị tất được an vui trọn vẹn. Biết bao nhiêu người nghèo khó khi làm việc có tiền, trở thành Trưởng giả sang giàu, nhưng rồi lòng ham muốn vẫn còn làm cho họ khổ, không bao giờ được an vui, vì họ chưa thấy đủ. Đó là chưa kể những cái khổ phụ thuộc khác như lo lắng thêm nhiều, sợ mất của càng làm lo sợ nhiều hơn.

Thử hỏi khi có nhiều của cải tài sản như vậy có hết khổ không? Có an vui như mong muốn không?

Thật ra vui hay khổ là vật vô tư, không thật có, nhưng chỉ vì tâm chúng ta còn đầy dẫy phiền não, tối mê nên chấp là có thật để rồi tự mình thấy khổ hoặc vui mà thôi. Bao giờ Tâm ta sạch hết phiền não thì không còn khổ nữa.

 

HỎI: Thưa ông, muốn hành cho có kết quả ba phương pháp tận diệt phiền não là Giới, Định, Tuệ ấy, người Phật tử cần phải có thêm điều kiện gì khác không?

ĐÁP: Đức Thế Tôn thường dạy: Nên tập cho mình trở nên người luôn luôn có trí nhớ, biết mình, không nên dể duôi thì mới giải thoát được.

Đối với người Phật tử, Trí nhớ rất quan trọng, ví như cái khiên để che chở tên đạn cho người chiến sĩ. Khi Tâm người thiếu Trí nhớ thì làm gì cũng khó có kết quả mỹ mãn, và trái lại còn đem đến sự tai hại nữa.

Theo người đời, có trí nhớ là không quên phận sự của mình. Pháp ghi nhớ của Đức Thế Tôn dạy có khác và thật chu đáo. Trí nhớ được Ngài phân tích và mổ xẻ thành nhiều pháp phụ cho chúng ta dễ hiểu và dễ lãnh hội, nhất là để cho người ai ai cũng có thể thưïc hành theo được.

Trước hết là vật mà người dùng để ghi nhớ đó thuộc về Tâm, đó là tác ý ghi nhớ.

Tuỳ theo tính cách sử dụng, phận sự và hành động của Tác ý ghi nhớ. Pháp gọi là Trí nhớ đây có nhiều tên khác nhau. Chẳng hạn trường hợp Trí nhớ được Đức Phật gọi là Satibala Niệm Lực, nơi đây ngụ ý chỉ về Sức mạnh của Trí nhớ. Cũng có chỗ gọi là Satindriya Niệm căn, ý nói trí nhớcăn bản của sức mạnh bên trong. Hay gọi Trí nhớ là một nguồn nhớ không khi nào bị gián đoạn. Chỗ khác gọi là Satisambojjhanga - Niệm Giác chi. Có nghĩa Trí nhớ là nhân sinh lên quả Bồ Đề.

Tóm lại, Trí nhớ là một phương pháp làm cho người hằng nhớ sự hành động cử chỉ của mình.

Trí nhớ có ba:

1/- Tính cách nhớ hành động của mình và của mọi người không bao giờ quên.

2/- Tính cách tìm hiểu rõ nhân và quả của các ác pháp. Nên biết rõ rằng: Việc này không phải thiện nghiệp, nó là nhân đem lại tai hại, không trong kiếp này thì cũng kiếp vị lai.

3/- Tính cách tìm hiểu nhân và quả của các điều Thiện như vầy: Điều nào thuộc về thiện pháp thì chắc chắn sẽ trả quả an vui cho ta, không trong kiếp này thì cũng kiếp sau.

Ngoài ra Trí nhớ còn có giúp chúng ta trong nhiều trường hợp như khi biện luận hay ôn nhớ lại các việc đã qua và những việc ta sẽ làm. Người làm việc thường sơ thất là vì thiếu Trí nhớ.

Trí nhớ là nhân đem lại nhiều sự lợi ích như đã kể trên. Nên Đức Thế Tôn dạy "Satanga khvàham bhikkhave sabbatthikamvadàmin", Này các thầy Tỳ khưu, Như Lai hằng ngợi khen rằng: Trí nhớ là một đặc ân, một tài sản tối cao, có thể đem sự lợi ích đến cho người được.

Những Trí nhớ nói trên thuộc về trí nhớ của người phàm, nên chỉ có lợi ích trong một phạm vi nhỏ hẹp mà thôi, không phải là trí nhớ tới nơi giải thoát. Đức Thế Tôn có dạy Trí nhớcon đường đi tới nơi giải thoát. Thiết tưởng nhân dịp này cũng cần nhắc luôn ra đây để ông hiểu thêm.

Trí nhớ của người giải thoáttrí nhớ Tứ Niệm Xứ. Trí nhớ này có bốn chi:

1. Niệm thân. Nghĩa là hành giả luôn luôn ghi nhớ đến thân lấy sắc uẩn (thân) này làm ấn tượng (đề mục), quan sát cho thấy rõ thân này thật không bền vững, nó hằng đem sự đau khổ, bực tức, hằng thay đổi từng sát na. Thật ra mà nói thì noù không phải là của ta. Người hằng niệm như vậy gọi là niệm Thân.

2. Niệm Thọ. Nghĩa là dùng trí tuệ để quan sát Thọ uẩn (là những tiếp xúc thâu nhận lấy những sự việc bên ngoài, vui hay khổ, những đề mục vui hay khổ không đề mục nào được tồn tại trong lòng ta. Nó chỉ đem lại cho ta trong nhất thời tùy theo sức của nó. Những việc gì cũng thay đổi từng sát na, nó không thường, vì vậy nên nó là khổ não. Nếu nó không thường và đem khổ não đến cho ta thì nó không phải ta nghĩa là Vô ngã. Khi ta dạy tâm ta niệm tưởng như thế gọi là niệm Thọ. Người nên nhận thấy những sự vật mà ta đã thọ lãnh đều trong phạm vi cai quản của Vô thường, Khổ nãoVô ngã.

3. Niệm Tâm. Người hành giả nên để tâm mình nhìn xem Thức uẩn, ý nói rằng hãy dùng trí nhớ quan sát Thức uẩn để thấy rõ rằng: Thức này thường thay đổi không ngừng nghỉ, mặc dù trong một sát na cũng khó giữ được nó. Thức là vật không bền vững nếu vật nào không bền vững là vật hằng đem lại sự đau khổ, nếu vật hằng đem đến đau khổ là không phải của Ta.

4. Niệm Pháp. Nghĩa là hành giả để trí nhớ vào Tưởng uẩnhành uẩn để kiểm lại cho chặt chẽ, và phải thấy rõ ràng: Hai uẩn này là Vô thường, Khổ nãoVô ngã. (Đoạn này rút trong bài kinh tên là Mahàsatipatthàna có nghĩa là Đại Tứ Niệm Xứ).

Đây là bốn pháp làm cho Trí nhớ phát sinh, hành giả nên hành cho được có kết quả. Không nên dể duôi.

1. Người có trí nhớ nên biết mình trong mọi oai nghi.
2. Tư cách của người xa lánh những người dể duôi thiếu trí nhớ hay người say sưa vì rượu.
3. Tư cách của người thường hay thân cận với các bậc trí thức. Bậc không bao giờ để quên mình, ý nói người hằng có sự không dể duôi, không hề dám xao lãng tu hành, người rất sợ luân hồi như người kinh sợ đao phủ thủ.
4. Tư cách của người làm việc gì chẳng hạn đều để trí quan sát kỹ càng trước khi hành sự.

Trong bộ chú giải của bài kinh Đại Tứ Niệm Xứ có dạy: Người có trí nhớ luôn luôn nhớ đến bảy điều sau đây:

1. Sự bước tới bước lui.
2. Sự ngó trước trông sau.
3. Sự co tay co chân, hay ngay tay ngay chân.
4. Sự mặc y, mang bát (sự mặc áo quần).
5. Sự ăn uống (như không cho rơi rớt, đổ tháo, hay không húp canh ra tiếng, hoặc ăn chắp).
6. Sự đi đại tiểu tiện.
7. Sự đi đứng nằm ngồi.

Trí nhớ trong bảy điều kể trên là Trí nhớ có sự biết mình. Người tập như thế khi tâm được thuần thục thì người ấy có thể ngăn đón được tâm phóng túng, vọng động.

Đại đức Xá Lợi Phất có dạy "Dve dhammà bàhupakàrà", nghĩa là Trí nhớBiết mình là hai pháp có rất nhiều đặc ân cho người hành đạo.

Tâm người mà thiếu hai pháp ấy thì nó sẽ phóng túng theo ý nó. Tâm ấy không còn phân biệt được phải trái. Ví như xe mà không có tài xế, hoặc xe đang xuống dốc mà không có thắng hay thắng bị hư. Người trên xe ấy có thể chết dễ dàng.

Tướng của trí nhớ có hai là:

1. Apilànalakkhanam - Tư cách nhắc nhở Tâm không cho tâm quên (mọi việc mà đã có).
2. Upagghahalakkana - Tư cách gom tâm lại một chỗ (có nghĩa là không cho Tâm phóng túng cũng gọi là Định).

Trí nhớ là nhân làm cho Tâm không quên hay không xa thiện pháp. Hơn nữa nó có lợi ích là ngăn không cho ác pháp đến gần hay xâm nhập vào Tâm. Trí nhớ giống như vị coi ngân khố nhà vua, biết rõ số vàng còn bao nhiêu và thiếu bao nhiêu cho nhà vua biết, để nhà vua không dám xa xỉ. Cũng như Trí nhớ nhắc nhở Tâm cho biết rõ đã có bao nhiêu Thiện pháp được tích trữ, và còn có bao nhiêu ác pháp đang tàn phá Tâm.

Người mà thực hành đúng theo Pháp ghi nhớ là người:

1/- Ráng học cho thông thạo Phật ngôn.
2/- Ráng thực hành đúng theo lời Phật dạy.

Người có trí nhớ là người có Thâm Tâm rất bình tĩnh. Khi có chuyện gì xảy ra làm cho bất bình cũng không hề tỏ vẻ bất bình. Chỉ có người có trí nhớ mới có thể dằn được cơn nóng giận ấy. Vì người có trí nhớ hằng biết rõ: Sân là thứ thuốc độc làm hại Tâm. Sau ấy mới tìm phương thế để diệt trừ sự nóng giận bằng một phương pháp nào tùy theo trường hợp, chẳng hạn như bằng nhẫn nại, bằng từ bi hoặc bằng cách lánh mặt đi nơi khác để tránh sự đáng tiếc sắp xảy ra. Sự tránh được những cãi vã hay bất hòa cũng do nhờ Trí nhớ trước hết. Trí nhớ mà có đủ rồi có thể dập tắt được các thứ lửa như lửa Sân hận, Tham lam ... nơi mà nó vừa bộc phát. Thật ra phương pháp ghi nhớ không mất tiền mua, nhưng lại là phương pháp diệt phiền não thật là hữu hiệu.

 

HỎI: Ông nói Phật Pháp thật là huyền diệu. Biết được Tâm phiền não, nhưng tại sao đã có biết bao vị xuất gia tu hành tinh tấn mà khoâng thấy vị nào đắc thánh quả giải thoát?

ĐÁP: Muốn biết rõ pháp giải thoát, ông cần phải biết sơ qua về Niết bàn của Phật pháp. Niết bàn có hai:

1. Hữu dư Niết bàn: Nghĩa là Niết bàn còn dư sót. Ý nói: Các bậc Thánh nhân đã đắc đạo, các Ngài không còn phiền não, nhưng còn mang cái thân ngũ uẩn này, các Ngài vẫn còn phải bị bệnh hoạn, còn đói khát như chúng ta. Nhưng khác hơn chúng ta là các Ngài không bị khổ phiền não. Các Ngài không khổ và không mến tiếc Ngũ uẩn như chúng ta. Các Ngài còn sống trong thế gian này vì các Ngài còn tuổi thọ nên không nhập diệt đó mà thôi.

2. Vô dư Niết bàn: Nghĩa là Niết bàn không còn dư sót. Ý nói các Ngài không còn có thân ngũ uẩn này nữa. Các Ngài đã đến Niết bàn thật sự, nghĩa là bỏ hẳn thân ngũ uẩn. Nói một cách khác để cho dễ hiểu hơn là hoàn toàn đã nhập diệt.

 

HỎI: Thưa ông, như chư Thánh nhân biết rằng: Đời này khổ, các Ngài đã giải thoát rồi, không mến tiếc gì thì tại sao các Ngài không nhập diệt đi cho rồi mà còn sống trong đời này để làm gì?

ĐÁP: Đã là Thánh nhân nên không còn phiền não thì các Ngài nào còn kinh sợ khổ như chúng ta. Sở dĩ các Ngài chưa nhập diệt là vì các Ngài thấy tuổi thọ các Ngài còn dư chưa hết, các Ngài đối với thân này chẳng khác nào như chúng ta mặc áo, mặc dù cũ, mới dơ, sạch cũng thế thôi. Đối với các Ngài, thân này dẫu còn hay mất cũng không thành vấn đề.

Ông nói rằng: Có lẽ ông hiểu nghĩa sự giải thoát bằng cách tuyệt đối, nghĩa là theo ông phải thành Phật mới là giải thoát. Nhưng nếu ông hiểu như vậy thì chỉ đúng một phần thôi, chứ không cần phảisự giải thoát lần hồi từng chi tiết một. Chắc ông cũng trông thấy các chư Đại đức giải thoát được rất nhiều những cái mà chúng ta còn dính mắc rất chắc như Gia đình, Quyền lợi, Danh vọng. Các Ngài hầu như xa hẳn với việc thế gian. Như vậy tại sao ông nói các Ngài không giải thoát. Sở dĩ chúng ta lễ bái cúng dường các Ngài là vì các Ngài đang thực hành những pháp cao thượng mà chúng ta chưa hành được.

Ông nói, ông không thấy các bậc Thánh nhân được giải thoát. Sự thật nếu ông ngồi đối thoại với các vị Thánh nhân mà ông nói như vậy, các Ngài nghe biết, các Ngài cũng không nói cho ông biết Ngài là Thánh nhân. Vì các Ngài không còn phiền não nên các Ngài không cần ai biết mình là gì hết.

Chỉ khi nào chính ông được giải thoát, ông đắc được Tâm pháp như các Ngài thì ông mới nhận biết các Ngài là bậc Thánh nhân.

 

HỎI: Xin ông cho biết, người ta thường nói Đức Phật độ tận chúng sinh. Vậy có đúng không? Tất cả hàng Phật tử tu theo Phật giáođược giải thoát không?

ĐÁP: Sự thật Đức Phật không có quyền lực gì đem chúng sinh lòng còn đầy dãy phiền não giải thoát được. Trong Tam Tạng cũng không hề thấy có nơi nào nói: Đức Thế Tôn cứu người ra khỏi khổ cả. Mà cũng không phải Ngài là đấng thiêng liêng lập ra thế gian này để cho chúng sinh ở chịu khổ. Ngài không ban phước hay cho tội chi chi hết.

Ngài chỉ là đấng tìm thấy con đường giải thoát khỏi khổ, chân lý dạy người hành theo thoát khổ. Rồi vì lòng Từ bi của Ngài, nên Ngài mới đem ra giáo hoá chúng sinh, ai hành theo lời Ngài thì chắc chắn được giải thoát.

Phật pháp ví như món ăn ngon, người nào muốn ăn no và cảm thấy ngon thì nên tự mình ăn thì mới biết là vật thực ngon.

Phật pháp ví như thần dược, khi người bệnh muốn khỏi thì uống, khi uống đúng độ của thuốc thì sẽ thấy cái hay của thuốc, nghĩa là khi ấy mới thấy cái hiệu nghiệm của thuốc như thế nào. Người bệnh mới biết chính mình bớt bệnh và mạnh. Riêng người ngoài thì không biết gì cả. Cũng như nếu ông muốn biết thế nào là giải thoát thì hãy hành đạo. Khi hành xong diệt được phiền não tới mức độ nào thì ông mới biết ông giải thoát. Vì vậy nên giải thoát mới gọi là Pháp cao siêu, vì Pháp ấy ai đắc thì chỉ có một mình người ấy hiểu biết mà thôi.

Để trả lời câu ông hỏi: Tất cả Phật tử tu theo Phật giáođược giải thoát hết hay không? Tôi xin nhắc lại bài kinh Banakamoggallàna cho ông hiểu.

Bài kinh này, Đức Thế Tôn thuyết cho ông Bà la môn tên là Banakamoggallàna tại chùa Subbàràma gần thành Sàvatthì như vầy:

Có thầy Bà la môn tên là Ganagamoggallana đến hỏi Phật rằng: Thưa ông Cồ Đàm, tất cả đệ tử của thầy nghe theo lời thầy dạy, hành theo lời thầy đều được giải thoát hết không?

Đức Thế Tôn đáp: Này thầy Bà la môn, mặc dầu Như Lai giảng dạy thật rành như thế, nhưng cũng có vị đắc thành, có vị không đắc thành.

- Thưa thầy Cồ Đàm, do đâu, bởi lý do nào? Niết bàn có thật? Có vị giáo chủ chỉ bảo rành rẽ. Tại sao có vị đắc đươïc Niết bàn, còn có vị không đắc được?

- Này thầy Bà la môn, Như Lai xin hỏi thầy điều này, thầy cứ trả lời theo kiến thức của thầy. Như thầy là người rành đường đi vào thành Vương Xá, có người kia muốn vào thành Vương Xá đến hỏi thầy rằng: thưa thầy, tôi muốn đến thành Vương Xá, xin thầy vui lòng chỉ giùm.

Khi đó thầy bảo với người ấy rằng: Đây là đường đi đến thành Vương Xá, người đi đến một nơi kia có làng tên như vầy, đến nơi nọ có quận như vầy, rồi đi đến nơi có nhiều đám vườn đẹp, có ao hồ mát mẻ tốt tươi, nhà cửa xinh đẹp đó là thành Vương Xá.

Thầy chỉ rõ như vậy, nhưng người ấy lại đi lạc đường. Còn có người khác nhớ kỹ và đi đúng đường, họ đến nơi đến choán. Này thầy Bà la môn, vì lý do nào, vì nguyên nhân nào? Có đường đi đến thành Vương Xá thật và người chỉ đường rất rành cuõng có, nhưng tại sao có người đi lạc đường, có người lại đi đúng?

- Thưa thầy Cồ Đàm, chuyện này tôi đâu biết làm sao, vì tôi chỉ là người chỉ đường mà thôi.

- Thầy Ba la môn, Như Lai cũng vậy. Niết bàn có thật, đường đi đến Niết bàn cũng có. Nhưng có vị đệ tử của Như Lai không đến mục tiêu được, có vị lại đắc được. Như vậy đâu phải lỗi tại Như Lai, vì Như Lai cũng chỉ là người chỉ đường mà thôi.

Nếu người nào hữu duyên học thông Phật pháp và rất chuyên cần hành đúng theo lời chỉ giáo của đấng Đại Giác thì sẽ đắc quả theo ý muốn.

Người có đức tin chân chính, hành theo đúng giáo pháp của Đức Thế Tôn thì chắc chắn đắc đạo quả chẳng sai. Sở dĩ người không đắc được là vì hành không đúng theo lời Ngài dạy, người này cũng ví như người đi không đúng theo đường lối của người chỉ.

 

HỎI: Rất cám ơn ông đã vui lòng giải đáp những sự nghi ngờ và thắc mắc trong lòng tôi từ lâu. Tôi cảm thấy không còn chi đáng hỏi Ngài thêm nữa. Cầu xin ông được mạnh khoẻ mãi và vui lòng chỉ giùm những điều chúng tôi nghi ngờ. Ngày nào tôi còn hoài nghi tôi sẽ đến hỏi ông thêm. Mong rằng ông vui lòng chỉ giúp.

ĐÁP: Không có chi mà ông phải ngại, đây phải chăng là trong lúc có thì giờ nhàn rỗi chúng ta bàn qua vấn đề đạo đức chút đó thôi. Tôi cũng mong gặp lại ông ngày gần đây.

--(Hết)--

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22974)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22482)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21771)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23341)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21197)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21775)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22239)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23618)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20058)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24761)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18999)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30989)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24001)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27770)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26531)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38149)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18809)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19995)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19055)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23184)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22934)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18719)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15852)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18868)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19695)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20169)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19962)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16432)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16929)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39272)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26088)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20111)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24075)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22908)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30974)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21018)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26870)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20680)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26272)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19831)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15845)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19872)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28986)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20697)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19456)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30525)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36455)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33248)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35583)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21001)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21931)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25274)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25813)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant