Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khái Niệm Uẩn, Xứ Và Giới Theo Sanskrit

23 Tháng Sáu 201514:10(Xem: 7970)
Khái Niệm Uẩn, Xứ Và Giới Theo Sanskrit

KHÁI NIỆM UẨN, XỨ VÀ GIỚI THEO SANSKRIT

Phước Nguyên


Khái Niệm Uẩn, Xứ Và Giới Theo Sanskrit


I/ THẾ NÀO LÀ UẨN?

Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.

Từ skandha của Sanskrit Hán dịch là Uẩn, với ý nghĩa: tích tập. Theo A-tỳ-đạt ma Câu-xá luận[1], từ uẩn có ba ý nghĩa:

  • Hòa hợp tụ: nhiều yếu tố nhóm tích tập một chỗ.
  • Kiên: Kiên là vai. Vai có thể gánh vác mọi vật.
  • Chia đoạn: y cứ những tính chất khác nhau mà chia ra làm nhiều loại.

Y theo bản Sanskrit Câu-xá, Phẩm Phân biệt giới, luận nói : “rāśyāyadvāragotrārthā skandhāyatanadhātava/[2]: Uẩn, xứ và giới, có nghĩa là tụ, sinh môn và chủng tộc. Như vậy theo ngài Thế Thân trong Câu-xá Skandha, có nghĩa là: tụ, tích tụ, tập hợp v.v..

Chúng ta có thể xem Kinh Tạp A-hàm, Đại Chánh Tạng Tân Tu, trang 15a, giải thích tường tụ về sắc Uẩn. Hay ở đây chúng ta có thể đọc đoạn Kinh Pāli như sau: “ya kiñci bhikkhu rūpa atītānāgatapaccuppannam ajhatta vā bahiddhā vā oālika vā sukhuma vā hia vā paita vā ya dūre santike vā[3]…: Những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoăc thô, hoặc vi tế, hoặc thấp kém, hoặc vi diệu, hoặc xa, hoặc gần, tất cả được tổng họp làm một, và gọi đó là sắc uẩn.

Đại Tì-bà-sa Luận, định nghĩa Uẩn có bốn ý nghĩa :

“Uẩn có nghĩa là tụ 聚,

“ Uẩn có nghĩa là hiệp 合,

« Uẩn có nghĩa là tích 積,

« Uẩn có nghĩa là lược 略.” [4]

Vì từ Sanskrit ở đây là rāśi, với ý nghĩa là: đống, tụ, tích tụ…

Theo Biện Trung Biên[5], Uẩn có ba ý nghĩa:

  • Không phải một
  • Tóm lược: Uẩn là do tích hợp nhiều yếu tố lại mà có.
  • Chia đoạn: từng nhóm, tùy theo đặc tính khác nhau của chúng.

Từ skandha của Sanskrit,  còn được dịch là Ấm 陰, với ý nghĩache đậy, đôi khi skandha  còn được dịch là Chúng 眾, hoặc cũng dịch là Tụ 聚 v.v..


II/ XỨ LÀ GÌ ?

Xứ 處, Sanskrit gọi là Āyatana, có nghĩa là, trụ xứ, lĩnh vực, cái nhà, chỗ trú ẩn, tòa ngồi, cái kho, đôi khi nó cũng được hiểu là quật trạch (hang ổ).

Từ Āyatana Hán văn dịch là xứ, nhập, có khi ghép cả hai thành nhập xứ.

Kinh nói: “cittacaitānām āyam utpatti tanvantīty āyatanāni »[6] : Những gì khuếch trương sự xuất hiện, hay sinh khởi, của tâm và tâm sở, đó là xứ.”

Theo đây, āyatana, là phức hợp từ của āya+tanoti, trong đó āya (sự hiện đến) = utpatti (sự sinh khởi); tanoti<tan: dàn trải, khuếch trương.

Ngài Thế Thân lại nói: “Cửa sinh xuất của tâm và tâm sở, là nghĩa của xứ. Theo ngữ nguyên, xứ là cái làm gia tăng sự sinh xuất của tâm và tâm sở. Nghĩa là, chúng khuếch trương[7]. Khuếch trương ở đây nên hiểu là nó làm phát sinh tác dụng của tâm và tâm sở.

Các Luận sư Tỳ-bà-sa trình bày mười hai định nghĩa của xứ[8] như sau:

  • Sinh môn: Sinh môn là cửa ngõ sinh hoạt vào ra.
  • Sinh lộ: Sinh lộ là con đường để sinh sống.
  • Tạng: Tạng là kho cất giữ.
  • Thương: Thương là kho lúa.
  • Kinh: Kinh là sợi chỉ xuyên suốt.
  • Sát: Sát là giết, tiêu diệt.
  • Điền: Ví như ở trong ruộng có vô lượng loại giống má sinh trưởng
  • Trì: Trì là hồ nước. Các nước từ nơi hồ mà tuôn ra.
  • Lưu: Lưu là chảy. Cũng vậy, các xứ dẫn đến sự rỉ chảy.
  • Hải: Hải là biển.
  • Bạch : rõ ràng.
  • Tịnh: Nghĩa là các xứ gồm nhãn, nhĩ,... là nguyên vẹn, chân thật, lắng trong.

Các luận sư A-tỳ-đàm giải thích : “Danh sắc làm chỗ nương tựa, làm chỗ tạo lập của lục nhập”[9]. Hán phiên âm từ Āyatana là a-da-đát-na và dịch là nhập hay xứ. Hán dịch là nhập, vì sáu căn là chỗ để cho sáu trần tiếp xúc, thiệp nhập với nhau làm điều kiện cho sáu thức sinh khởi, nên Āyatana được các nhà Hán dịch là nhập. Và Hán dịch Āyatana là xứ, vì xứ là chỗ y cứ của sáu căn và chỗ sở duyên của sáu trần, nên gọi là xứ.


III/THẾ NÀO LÀ GIỚI ?

Giới 戒, từ Sanskrit là Dhātu, có nhiều nghĩa như tầng lầu, thành phần, yếu tố, yếu tố cơ bản của thân thể/ thế giới…, Theo Phật Thuật từ Dhātu có nhiều nghĩa : cõi (界), kim loại, từ căn (root), căn động từ, (kinh văn), thế giới, tánh, căn tánh, chủng tánh, xá lợi, Phật tánh, Pháp thân v.v… chữ Giới, được hiểu như là chủng tánh hay đặc tánh, mỗi giới có một đặc tánh tiêu biểu riêng của mình.

Ngài Thế Thân nói : « Gotrārtho dhātvartha / yathaikasmin parvate vahūnyayastā mrarupyasuvarādigotrāi dhātava ucyante evamekasminnaaśraye santāne vāṣṭādaśa gotrāi āṣṭādaśa dhātava ucyante / ākarāstatra gotrāyucyante / tai me cakurādaya kasyākarā / svasyā jāte / sabhāgahetutvāt / asaskta tarhi na dhātu syāt / cittacaittānā tarhi jātivācako’ya dhātuśabda ityapare / āṣṭādaśdharmāā jātaya svabhāvā aṣṭādaśa dhātava iti // »[10]

« Nghĩa của giới là chủng tộc (Hay tộc họ của Pháp). Cũng như ở một chỗ trong núi có nhiều họ của sắt, đồng, vàng, bạc các thứ, được gọi là giới; cũng vậy, trong một sở y hay trong chuỗi tương tục có mười tám chủng loại được gọi là mười tám giớí… Ở đây, chủng tộc được nên được hiểu là mỏ khoáng. Thế thì, con mắt các thứ là mỏ của cái gì? Của chủng loại cá biệt của nó. Vì là đồng loại nhân. Nếu vậy, vô vi không thể là giới. Nhưng, nó là mỏ khoáng của tâm và tâm sở. Theo thuyết khác, từ «giới» hàm nghĩa chủng loại. Chủng loại của mười tám pháp có tự thể riêng biệt, nên có mười tám giới. »

Chúng ta có thể dẫn thêm một đoạn khác của Câu-xá Phạn văn : « ākarās tatra gotrāy ucyate », Huyền Tráng dịch: «chủng tộc nghĩa là sinh bản 生本.», Chân Đế dịch là : «biệt nghĩa là bản.»

Kinh cũng nói: “ākarā iti praktam, ākara[11] : (mỏ khoáng chất), nghĩa là sản vật nguyên thủy. Từ Sanskrit prakta, trong các bản Hán thường đọc là prakṛti: nguyên sinh chất.

Y hai duyên mà thức phát sinh, tất cả mười tám giới đều là SỞ DUYÊN DUYÊN, và TĂNG THƯỢNG DUYÊN, cho thức cùng với các tương ưng của nó, vì vậy giới được hiểu là HẦM MỎ.  Do bởi động từ Sanskrit a-k: dồn lại, hợp thành, ākara (hầm mỏ) có nghĩa là nguồn gốc phát sinh.

Luận sư Tỳ-bà-sa giải thích, Giới có tám nghĩa như sau:

  • Chủng tộc: Nghĩa là ở trong thân tương tục có mười tám loại chủng tộc khác nhau, nên chủng tộc có nghĩa là giới.
  • Đoạn: Vì chúng có sự sắp xếp phân đoạn thứ tự và mỗi chủng loại đều có tên gọi, nên đoạn có nghĩa là giới.
  • Phần: Trong nam thân và nữ thân đều có mười tám phần, nên phần có nghĩa là giới.
  • Phiến: Trong thân nam nữ đều có mười tám phiến mảnh, nên phiến mảnh có nghĩa là giới.
  • Dị tướng: Tướng của nhãn giới khác tướng của nhĩ giới,...; tướng của sắc giới khác tướng của thanh giới,...; tướng của nhãn thức giới, khác tướng của nhĩ thức giới,... nên dị tướng có nghĩa là giới.
  • Bất tương tợ: Tướng của các giới từ nhãn giới cho đến ý thức giới, không có tướng nào tương tợ tướng nào, nên tướng không tương tợ có nghĩa là giới.
  • Phân tề: Sự phân chia tề chỉnh mỗi giới khác nhau trong mười tám giới đối với nhau, nên phân tề có nghĩa là giới.
  • Chủng chủng nhân: Loại này là nhân của nhãn giới; loại này không phải là nhân của nhãn giới,... Nghĩa là mỗi giới trong mười tám giới đều có từng chủng loại nhân duyên của nó, nên chủng chủng nhân có nghĩa là giới[12]

Y Theo Thanh Luận, dẫn bởi Đại Tỳ-bà-sa luận 71[13].Giới có ba nghĩa như vầy:

  • Trì lưu: Các giới này lưu chảy luân hồi ở trong bốn loài, năm thú, ba cõi, nên trì lưu gọi là giới.
  • Nhậm trì: Các giới này, mỗi giới có khả năng duy trì tự tánh của nó, nên nhậm trì gọi là giới.
  • Trưởng dưỡng: Các giới này nuôi dưỡng các chủng tánh khác, nên giới có nghĩa là chủng tộctrưởng dưỡng.

Như vậy, Uẩn – Xứ - Giới, đã được ngài Thế Thân trình bày rõ ràng ở trong Phẩm Phân Biệt Giới, thuộc A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, chúng ta có thể tìm đọc để hiểu rõ thêm về vấn đề Uẩn-Xứ-Giới. Còn bài viết này bản thân nó chỉ là một vài gợi ý nhỏ mà thôi.

Phước Nguyên.

 



[1] Câu-xá 1, Huyền Tráng, Đại 29.

[2] Cf. Kośa 1. Dhātunirdeśa.

[3] Cf. Pāli, S.iii., tr.105.

[4] Tỳ-bà-sa 74, tr.383c16.

[5] Biện Trung Biên Luận, quyển Trung, Đại 31.

[6]Sphut., tr.59.

[7] Kośa 1. Dhātunirdeśa. Cf. Câu-xá 1, Huyền Tráng, Đại 29.

[8] Tì-bà-sa 73, tr. 379a12.

[9] Pháp Uẩn Túc Luận 11, Đại 26, tr. 109.

[10] Kośa 1. Dhātunirdeśa.

[11] Sphut., tr.59.

[12] Cf. Tỳ-bà-sa 71, Đại 27.

[13] Ibid., tr. 367c – 368a.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22481)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21770)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23335)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21193)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21774)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22239)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23615)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24760)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18995)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23998)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26530)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38146)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19994)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19055)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23182)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22933)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18718)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15851)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18866)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19693)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20169)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19959)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16427)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16927)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26086)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20110)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24074)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22907)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30971)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21017)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26870)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26270)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15843)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19869)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28984)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20696)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19455)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30520)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36450)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33247)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35583)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21000)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21930)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25272)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25812)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31276)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant