Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chánh kiến

03 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9240)
Chánh kiến

CON ÐƯỜNG CŨ XA XƯA 
(Bát Chánh Ðạo) 
Phạm Kim Khánh 
Trung tâm Narada, Seattle, Hoa Kỳ 1993

Phần 3

Chánh kiến

 

Chánh kiếntri kiến chân chánh, hiểu biết đúng đắn, sự vật như thế nào thì hiểu biết đúng như vậy. Hiểu sâu vào bên trong thực tướng của sự vật chớ không phải hiểu phớt trên bề mặt. Ðến mức cùng tột, Chánh Kiếnthấu triệt thực tướng của ngũ uẩn, tức thấu triệt bản chất của chính mình. Nói theo một cách, Chánh Kiếnchứng ngộ Tứ Diệu Ðế. Tuy nhiên, trước khi đạt đến từng hiểu biết cao siêu ấy, trong ý nghiã thông thường, Chánh Kiếnphân biệt chánh tà, biết điều nào là thiện và điều nào bất thiện. Muốn thực hành Giáo Pháp mà không có nền tảng Chánh Kiến vững chắc lắm khi phải lầm đường lạc nẻo, thay vì hướng về mục tiêu, càng tách rời ra.

Chính quan kiến hướng dẫn hành động. Sự hiểu biết của chúng ta luôn luôn nằm phiá sau nỗ lực của chúng ta. Nếu hiểu biết sai lầm, tà kiến sẽ dẫn dắt đến những hành động lầm lạctác dụng tạo đau khổ. Ngược lại, nếu hiểu biết chân chánh, Chánh Kiến sẽ đưa đến hành động chân chánh và do đó, hướng về con đường thoát khổ. Mặc dầu sự hướng dẫn sơ khởi này vẫn còn là một khái niệm mù mờ, hình như không đưa đến hậu quả nào quan trọng, nhưng nhìn lại tận tường, đó là bứơc đầu có tánh cách quyết định cho cả toàn thể tiến trình phát triển tinh thần trong tương lai.

Theo một lối phân hạng, Chánh Kiến có ba là:

1. Sự hiểu biết chân chánh rằng ta là sở hữu chủ của nghiệp mà ta đã tạo.

Ðức Phật dạy:

"Tất cả chúng sanhsở hữu chủ của cái nghiệp của mình, là thừa kế cuả cái nghiệp của mình, sanh ra do nghiệp của mình, là họ hàng thân thuộc của cái nghiệp của mình, ẩn náu trong và được nâng đỡ bởi, cái nghiệp của mình. Bất luận nghiệp nào mà ta đã tạo, dầu thiện hay bất thiện, thì ta sẽ là thừa kế, hưởng trọn hậu quả của nó."
Trong đời sống ta có thể cần cù làm lụng, kiệm cần dành để và tạo nên nhà cửa, sự nghiệp, vàng vòng, trang sức v.v... Ta cũng có thể thừa hưởng những sở hữu trên do ông bà cha mẹ truyền lại. Ta gọi đó là "của mình", hay nói "mình" là sở hữu chủ của những vật đó. Tuy nhiên, dầu ta có bám chắc, nắm chặt và tận lực gìn giữ đến đâu, nó vẫn ở với ta một cách tạm thời. Bao nhiêu yếu tố như hỏa hoạn, bão lụt, trộm cướp, kẻ thù nghịch, chiến tranh v.v... và cuối cùng cái chết phải đến, luôn luôn sẵn sàng để tước đọat quyền làm chủ của ta. Chỉ có một điều -- nghiệp thiện hay nghiệp bất thiện mà ta đã tạo -- sẽ không bao giờ rời ta, dầu ở trong kiếp sống này hay trong nhiều kiếp vị lai. Không có kẻ thù nghịch hay trộm cướp nào tranh đoạt, không có chiến tranh hay thiên tai nào tiêu hủy, chí đến cái chết cũng không làm mất mát hay sứt mẻ cái nghiệp của ta. Do đó, Ðức Phật dạy rằng: "Tất cả chúng sanhsở hữu chủ của cái nghiệp của mình".

Vì cái nghiệp mà ta đã tạo theo dính liền với ta, ta sẽ thừa hưởng hậu quả của nó như phần di sản, ta sẽ tái sanh vào trạng thái nào cũng do nơi nó, nó là những người họ hàng thân thuộc không bao giờ rời ta. Ta sẽ ẩn náu an toàn trong thiện nghiệp và nhờ thiện nghiệp nâng đỡ. Nó như người bạn tốt đón chờ ở một cảnh giới nào trong tương lai để hỗ trợ ta. Vậy, ta phải chăm sóc, giữ gìn cái nghiệp cho được luôn luôn tốt đẹp. Ðôi khi có người nói, "Tôi ăn hiền ở lành, không trộm cướp gì của ai, vậy là đủ rồi, cần gì phải tu." Nói như vậy nghe thóang qua hình như hữu lý. Nhưng ăn hiền ở lành là thế nào? Theo người đời, đi câu cá, săn thú hay trà đình, tửu quán là thú tiêu khiển thanh nhàn, cướp sự sống của sinh vật để nuôi mạng sống mình hay để hỷ hả tiệc tùng là tự nhiên, và ta tạo bao nhiêu bất thiện nghiệp khác một cách vui vẻ, tự nhiên. Ta phải biết thương, biết bảo tồn nghiệp thiện hơn là thương yêu và bỏa tồn chính sự sống của ta. Ta phải biết sợ, biết lánh xa bất thiện nghiệp, hơn là ta sợ lánh xa cái chết của chính ta. Thế thường, ta sợ chết và muốn sống. Ðể bảo tồn sự sống và ngăn chặn cái chết, lắm khi ta hành động bất chánh và do đó, tạo nghiệp bất thiện vô cùng tai hại mà trong nhiều kiếp sống chính ta phải gánh chịu hậu quả. Nên nhớ rằng chết ở đây là tái sanh, sống lạinơi khác, và khi rời bỏ cảnh giới hiện tại ta cũng lià bỏ tất cả, chỉ mang theo cái nghiệp mà ta đã tạo. Trong quyển The Buddha and his Teachings (Ðức Phật và Phật Pháp), cố Ðại Ðức Nãrada viết:

"Tài sản sự nghiệp mà ta trìu mến bao nhiêu, thân bằng quyến thuộc mà ta yêu qúy bao nhiêu, sẽ không đi theo ta. Chắc chắn như vậy. Cho đến cơ thể này mà ta gọi là "Của Ta" cũng vậy. Từ cát bụi nó đến. Nó sẽ trở về với cát bụi. Danh vọng ảo huyền, vinh quang trống rỗng, tất cả đều tiêu tan theo mây theo gió. Vẫn một thân một mình chúng ta phiêu bạt trong cơn bão táp, giữa đại dương của vòng luân hồi, trôi giạt đó đây theo cái nghiệp."

2) Sự hiểu biết chân chính về thiện nghiệpbất thiện nghiệp, về hậu quả của nghiệp đã tạo, về sự hiện hữu của những cảnh giới ngoài cảnh người, về sự hiện hữu của những năng lực siêu phàm.

Nghiệp là hành động tác ý được thực hiện bằng ba đường lối: Tư tưởng, lời nói, việc làm. Tất cả những hành động có tác ý, thực hiện bằng thân, khẩu, ý, dầu thiện hay bất thiện, đều tạo nghiệp. Những hành động không cố ý, không chủ tâm, nghiã là không có tác ý (cetanã), đều không tạo nghiệp mặc dầu đã biểu hiện ra ngoài bằng lời nói hay việc làm.

Hành động thiện tạo nghiệp thiện và đến hậu quảhạnh phúc, tinh thần hay vật chất. Hành động bất thiện đưa đến thọ khổ, vật chất hay tinh thần.

-- Ba hành động tạo bất thiện nghiệp bằng thân là: sát sanh, trộm cắp, tà dâm.

-- Bốn hành động bất thiện nghiệp bằng lời nói là: Nói dối, nói đâm thọc, nói thô lỗ cộc cằn, nói nhảm nhí.

-- Ba hành động tạo bất thiện nghiệp bằng ý là: Tư tưởng tham lam, sân hậntà kiến.

Những hành động đối nghịch với mười điều kể trên ( như tâm từ, lòng thương chúng sanh, bố thí v.v...) được biểu hiện qua ba đường lối thân, khẩu, ý, dầu nhằm mục đích tạo dựng tài sản, để sinh sống hay để vun bồi kiến thức, đều được xem là thiện nghiệp.

Người có Chánh Kiến hiểu biết chân chính rằng những hành động như bố thí vật thực cho thú, cho người cư sĩ hay dâng cúng đến chư Tăng, nếu làm với tâm từ, sẽ đem lại hậu quả tốt đẹp, trong kiếp sống này và nhiều kiếp khác. Dầu cúng dường đông đảo chư Tăng với nhiều lễ vật qúy giá hay tặng một món qùa nhỏ mọn, nếu làm với tâm từ, vì lòng tốt, thương, muốn giúp người, vì lòng thành thật muốn đem phúc lợi đến cho người, hành động ấy sẽ tạo quả phúc cho người làm. Cùng thế ấy, những hành động như thọ trì Bát Quan Trai Giới trong những ngày giới, hằng giữ năm giới, tham thiền, quy y Tam Bảo v.v... đều tạo thiện nghiệp.

Người tà kiến chủ trương rằng mỗi người chỉ sống vỏn vẹn một kiếp, và tất cả năng lực --tinh thần cũng như vật chất - đều chấm dứt khi đời sống này chấm dứt. Chết là hết. Sau khi chết con người bỏ lại tất cả mọi năng lực phát nguyên trong đời sống và trở lại hoàn toàn hư vô, hoàn toàn tiêu diệt. Ðối với những người này bất luận hành động nào, dầu thiện hay bất thiện, cũng không đem lại hậu quả nào. Không nhân, quả, không nghiệp báo. Vì quan niệm như vậy, lý tưởng của họ là cứ tận hưởng mọi lạc thú trên đời, hưởng thọ càng nhiều càng tốt và có thể làm bất cứ gì dầu có hại ai khác.

Hiểu rằng mọi hành động thiện và bất thiện đều đem lại hậu quả; hiểu rằng phụng dưỡng cha mẹ, làm cho cha mẹ hữu phúc là tạo thiện nghiệp và sẽ được phước báu về sau; hiểu rằng thật sự có những chúng sanh hóa sanh, đột nhiên được sanh ra, bỗng nhiên xuất hiện mà không phải trải qua hình thức thai bào nào; hiểu rằng có cảnh giới này cũng có những cảnh giới khác. Những hiểu biết như vậy là chân chánh. Người có Chánh Kiến cũng hiểu biết rằng trong thế gian có những bậc cao minh, có khả năng siêu phàm như các bậc Thánh Tu Ðà Hườn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán.

3. Sự hiểu biết chân chánh về Tứ Diệu Ðế. 

Ðến mức cùng tột, Chánh Kiếnhiểu biết chân chánh về bốn Chân Lý Thâm Diệu trong thế gian (Tứ Diệu Ðế).

Chánh kiến ở mức sơ khởi là hiểu đúng con đường. Như người kia lạc nẻo, bỡ ngỡ trước nhiều ngả đường vì không biết chọn ngả nào, may thay chợt nhận ra tấm bảng chỉ đường bên canh một con đường mòn xưa cũ. Bảng chỉ đườngGiáo Pháp của Ðức Phật, khách lữ hành thênh thang lạc bước là phần đông chúng ta, những người sơ cơ, đường mòn là Con Ðường Cũ Xa Xưa mà chư Phật đã trải qua.

Vào giai đoạn đầu, Chánh Kiến là những hiểu biết chân chánh đưa hành giả đến hành động trong sạch, tạo thiện nghiệp để thọ hưởng những trạng thái nhàn lạc trong vòng luân hồi. Cũng có người đã lãnh hội đầy đủ luật nhân quả mà vẫn còn tự hạn chế ước vọng của mình trong những thành tựu của thế gian. Những người này có những hành động đạo đức thanh cao để tích trữ phước báu và thọ hưởng khoái lạc, danh vọng, quyền thế v.v... trần gian, trong cảnh người, hoặc thọ sanh vào những cảnh Trời nhàn lạc. Tuy nhiên, trong sự hiểu biết bằng lý trí - Chánh Kiến ở tầm mức tại thế - không có gì để đưa con người vượt lên khỏi định luật nghiệp báo, thoát ra khỏi vòng tạo nhân và gặt quả. Ðể giải thoát hoàn toàn ra khỏi vòng sanh tử luân hồi cần phải có sự hiểu biết sâu sắc, nhận chân thực tướng của vạn pháp, Chánh Kiến siêu thế.

Chánh Kiến cao siêu có khả năng đưa đến giải thoáthiểu biết Tứ Diệu Ðế. Ðức Phật dạy: 

"Bây giờ, Chánh Kiến là gì? Ðó là hiểu biết đau khổ, hiểu biết nguyên nhân sanh khổ, hiểu biết sự chấm dứt đau khổ, và hiểu biết con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ." (Dĩgha Nikãya, Trường A Hàm , bài kinh số 22)
Bát Chánh Ðạo bắt đầu với một khái niệm về Tứ Diệu Ðế, chỉ hiểu biết mù mờ xuyên qua lý trí và tiến dần đến tuyệt đỉnhtrực giác chứng nghiệm, thấu triệt những chân lý cao siêu thâm diệu ấy và trở nên hoàn toàn giác ngộ. Như vậy, có thể nói rằng hiểu biết Tứ Diệu Ðế là bước đầu mà cũng là mục tiêu tối hậu của con đường thoát khổ.

Ba chân lý đầu tiên của Tứ Diệu Ðế -- Khổ Ðế, Tập Ðế và Diệt Ðế -- là quan điểm của Phật giáo về kiếp nhân sinh. Dựa trên triết thuyết này Ðức Phật vạch ra một lối sống thích nghi đưa đến trạng thái tâm tuyệt đối trong sạchtrí tuệ toàn hảo. Ðó là Bát Chánh Ðạo, phần thực hành trong Phật Giáo. Ðó cũng là con đường được gọi là "Trung Ðạo" (Majjhimã Patipadã), tránh xa hai cực đoan. Một bên là lối sống lợi dưỡng, thấp hèn, của người buông lung, đắm chìm trong dục lạc. Bên khác là lối sống khắc khổ, vô bổ và vô nghiã lý, của những người ép xác khổ hạnh cuồng tín. Trung đạocon đường trải dài ở khoảng giữa hai cực đoan ấy, là con đường của lý tríthận trọng.

Chánh Kiến về Tứ Diệu Ðế phát triển qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên được gọi là Chánh Kiến phù hợp với chân lý (saccanulomika sammãditthi: Sammãditthi là Chánh Kiến, Sacca là chân lý, Amulomika là thuận chiều với, đúng với, phù hợp với ). Giai đoạn thứ nhì là Chánh Kiến thâm sâu vào chân lý, thấm nhuần chân lý (saccapativeda sammãditthi: Pativeda là đi sâu vào, thấm sâu vào bên trong). Chánh KIến phù hợp với chân lýhiểu biết rõ ràng ý nghiã của bốn chân lý cao siêu thâm diệu (Tứ Diệu Ðế) của đời sống. Sự hiểu biết này phát sanh do nhờ học hỏinghiên cứu những chân lý ấy. Sau đó, nhờ suy tư sâu vào mà ánh sáng của kinh nghiệm rạng chói dần dần đến lúc vữnbg chắc tin tưởng như vậy.

Tuy nhiên, chí đến mức độ này hành giả cũng chưa hoàn toàn thấm nhuần chân lý. Sự hiểu biết của hành giả đến lúc bấy giờ chưa tuyệt đối là hoàn bị vì đó chỉ là một quan niệm rõ ràng, thay vì là tri giác.

Muốn tiến đến thực sự chứng nghiệm phải trải qua thời gian thực hành pháp môn thiền định: Trước tiên là an trụ tâm vững chắc và sau đó trau giồi và phát triển Tuệ Minh Sát ( Vipassanã).

Tuệ minh sát phát sanh do nhờ quán chiếusáng suốt suy niệm về ngũ uẩn, những yếu tố của kiếp sinh tồn, để phân biện rõ ràng những đc điểm của nó. Ðến mức tuyệt đỉnh của cong trình suy niệm này hành giả tách rời cái nhìn của mình ra khỏi những hiện tương hữu lậu của ngũ uẩn và nhắm vào trạng thái vô lậu Niết Bàn. Lúc bấy giờ, nhờ Tuệ Minh Sát sắc bén thâm sâu, Niết Bàn đã có thể được thành tựu. Ðến đây hành giả chứng ngộ Niết Bàn. Ái Dục đã chấm dứt. Trí tuệ đã bừng sáng và hành giả rõ ràng thấy rằng ái dục thật sự là nguyên nhân của mọi hình thức đau khổBát Chánh Ðạo thật sự là con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ. Như vậy, Chánh Kiến thấm nhuần Tứ Diệu Ðế phát sanh vào giai đoạn cuối cùng của con đường, chớ không phải vào lúc sơ khởi.

Giai đoạn đầu tiên của người có Chánh Kiếnnhận ra Con Ðường. Rồi từ đó đặt chân lên Con Ðường và, nhờ Chánh Kiến soi đường, tiến dần đến mức cùng tột là chứng ngộ thực tướng của vạn pháp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22988)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22496)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21775)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23357)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21202)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21787)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22254)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23630)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20458)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20066)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21958)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19016)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 31011)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24010)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27785)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26553)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38175)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18816)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18440)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20004)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19061)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23195)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22944)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18732)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15857)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18877)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19705)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20177)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19968)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39294)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26117)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20125)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18877)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24094)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22922)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30986)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21036)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26880)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20695)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26278)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23352)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15847)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19878)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28997)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20712)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19463)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30549)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36468)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33262)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35593)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21007)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21943)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25281)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25819)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant