Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Minh hạnh

03 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8717)
Minh hạnh

CON ÐƯỜNG CŨ XA XƯA 
(Bát Chánh Ðạo) 
Phạm Kim Khánh 
Trung tâm Narada, Seattle, Hoa Kỳ 1993

Phần 7

Minh hạnh

Trước khi quyết định truyền bá Giáo Pháp Ðức Phật dùng huệ nhãn quan sát thế gian xem có ai lãnh hội được Lời Dạy của Ngài chăng. Bài kinh Ariyapariyesana Sutta của Bộ Trung A Hàm, Majjhima Nikãya, ghi lại như sau :

"Như trong đầm có những loại sen trắng, sen hồng, sen xanh lẫn lộn. Có những ngó sen chớm nở khỏi bùn, mọc lên trong nước, có những cây khác vừa lém đém ngang mặt nước và cũng có những búp sen đã vượt hẳn lên cao, không còn vướng chút bùn nhơ nước đục. Chúng sanh trong thế gian cũng dường thế ấy dưới tầm mắt của bậc Chánh Biến Tri. Như Lai nhìn thấy chúng sanh đủ hạng, hạng đầy bợn nhơ và hạng tương đối trong sạch, hạng thông minh sáng suốt và hạng tối tăm mờ mịt, hạng tốt hạng xấu, hạng thiện tri thức và hạng cuồng si. Như Lai cũng thấy hạng chúng sanh đang gieo mầm xấu xa và hạng chúng sanh đang gặt quả dữ của nhân đã gieo từ những kiếp quá khứ."
Theo sách Puggala Pannati, Chỉ Danh Những Cá Tính của Tạng Luận bài 160 và bài số 153 của Bộ Tăng Nhứt A Hàm, Anguttara Nikaya, của Tạng Kinh, trong số những người có duyên lành được gặp Phật Pháp (Buddha sasana) có bốn hạng như sau :

1- Ugghãtitannu, người thấu hiểu tức khắc, là người gặp được chính Ðức Phật và có đủ khả ngăn thành đạt Ðạo và Quả tức khắc, sau khi chỉ nghe qua một lời dạy vắn tắt và ranh mạch. Ðó là những búp sen đã vựơt ra khỏi bùn nhơ nước đục, là những búp sen trong trắng chỉ chờ tia nắng đầu tiên của buổi ban mai để nở tung ra một cách huy hoàng rực rỡ.

2- Vipancitannu, người thấu hiểu sau khi được nghe giải thích cặn kẽ, là người không có khả năng thành đạt Ðạo và quả tức khắc sau khi chỉ nghe suông một lời dạy vắn tắtrành mạch nhưng, nếu được giải thích dông dàicặn kẽ thì sẽ chứng ngộ Ðạo Quả.

3- Neyya, người cần phài được dắt dẫn, được chở đi v.v... hàm ý là người cần phải được dạy dỗ, là người không thể thành đạt Ðạo và Quả sau khi nghe bài kinh vắn tắtrành mạch, hoặc sau khi được nghe giải thích dong dài và cặn kẽ, nhưng cần phải chăm chú nghiên cứu, cần mẫn học hỏitinh tấn thực hành Giáo Pháp trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm mới có thể thành công.

Những người trong hạng Neyya này lại được chia nhỏ ra làm nhiều tiểu phân hạng, tùy theo thời gian cần thiết phải thực hành của mỗi người để đến mục tiêu. Và thời gian này dài hay ngắn lại tùy thuộc nơi vốn liếng Ba La Mật (Parami) đã được tích trữ của từng cá nhân và những ô nhiễm (kilesa) mà mỗi cá nhân cần phải gội rửa. Các tiểu phân hạng này bao gồm từ những cá nhân chỉ cần tận lực kiên trì tinh tấn trong bảy ngày đến những người phải cần đến ba mươi, hay sáu mươi năm mới đến mức.

Trong phân hạng này lại có những trường hợp khác nhau. Thí dụ như người kia có đủ duyên lành và đủ tinh tấn để chứng ngộ Ðạo và Quả Tu Ðà Hoàn trong bảy ngày. Nếu người ấy tận lực cố gắng trong khi tuổi còn niên thiếu hoặc lúc trung niên thì sau khi đắc Quả Tu Ðà Hoàn còn thì giờ để cố gắng tiếp tục đến A La Hán Ðạo và A La Hán Quả. Nhưng nếu để đến tuổi già mới đắc quả Tu Ðà Hoàn thì lắm khi không còn đủ thì giờ để tiến đến tầng Thánh cùng tột trong kiếp sống hiện tiền.

Lại nữa, người kia có đủ khả năng để thành đạt Ðạo Quả trong bảy ngày có nghĩa là người ấy phải hết sức nỗ lực trong bảy ngày để đến nơi. Nếu không tinh tấn đúng mức thì bảy ngày có thể trở thành bảy tháng, bảy năm hoặc lâu hơn nữa.

Những vị này, nếu không thành đạt Thánh Quả trong thời kỳ của vị Phật hiện tại, phải chờ đến thời kỳ của một vị Phật tương lai, nếu có duyên lành gặp được, mới có cơ may giải thoát. Giữa thời kỳ của vị Phật hiện tại và thời kỳ của vị Phật tương lai có mọt khoảng thời gian trống, không có Phật Pháp, và trong suốt thời gian ấy không thể có giải thoát vì không có Giáo Pháp, tức không có Bát Chánh Ðạo. Bây giờ, vào thời kỳ của vị Phật tương lai chỉ có những vị đã được thọ ký -- niyata vyãkarana, những người đã được một vị Phật cho biết trứơc là sẽ đắc Ðạo Quả -- mới chắc chắn là gặp Phật Pháp. Còn những vị khác, mặc dầu đã tích trữ đầy đủ Ba La Mật và đã gội rửa mọi bợn nhơ trong tâm, có thể gặp, có thể không gặp được Phật Pháp để nương nhờ đó giải thoát ra khỏi vòng đau khổ của những kiếp sinh tồn triền miên liên tục.

4- Padaparama, là người mặc dầu đã gặp Phật Pháp và đã hết sức cố gắng học hỏithực hành Giáo Pháp nhưng không thể thành đạt Thánh Ðạo và Thánh Quả trong kiếp sống hiện tiền. Tất cả những gì mà vị này có thể làm được là tạo cho mình một đức tánh cao thượng và một năng lực tiềm tàng hữu dụng về sau.

Ðó là những búp sen chưa sẵn sàng để nở trong ngày mai, khi mặt trời mọc. Họ là những ngó sen hoặc còn dưới sâu trong bùn non của vòng luân hồi, hoặc chưa lên khỏi mặt nước. Nhưng tất cả đều mang theo bên trong mình một tiềm năng để trở thành những đóa hoa tươi đẹp, màu sắc rực rỡ.

Khả năng thành đạt Ðạo và Quả của chúng sanh khác nhau là vì trình độ " Minh" và "Hạnh" của mỗi cá nhân khác nhau.

Minh (vijjã)sáng suốt, thấu đạt thực chất của đời sống, là tuệ Minh Sát, có Tri Kiến của bậc Giác Ngộ, hay chứng ngộ Tứ Diệu Ðế. Minh cũng có nghĩa là thông suốt Thập Nhị Nhân Duyên, tức những yếu tố phát sanh do những yếu tố trứơc đó tạo duyên và trở lại làm duyên cho những yếu tố khác phát sanh. Và cứ thế mười hai yếu tố ảnh hưởng lẫn nhau trong một vòng lẩn quẩn của những kiếp sống, sanh tử, tử sanh triền miên diễn tiến, gọi là vòng luân hồi. Do sự phá tan những bí ẩn của kiếp nhân sinh bằng cách thấu hiểu trọn vẹn và đầy đủ mối liên quan giữa mưới hai yếu tố trên, bậc Thánh Nhân cũng đập vỡ tung cái kính ảo kiến mà từ vô lượng kiếp xuyên qua đó ta thấy giả ngỡ là thật, thấy vô thừơng là vĩnh cửu trừơng tồn, xem đau khổhạnh phúc và cái vô ngãlinh hồn trừơng cửu và tin có một Thần Linh Tạo Hóa trong khi chỉ có sự phát sanh của những yếu tố tùy thuộc và những yếu tố trứơc đó.

Hạnh (carana) là đức dộ của người luôn luôn trau giồi tâm tánh để ngày càng trở nên trong sạch và cao thượng.

Cái gì làm cho tâm ta nhơ bẩn và kéo ta xuống?

Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) dạy rằng nguồn cội của tất cả những tánh hư tật xấu là tham, sân, si. Ngưười Phật Tử thuần thành phải là một chiến si can đảm và bất khuất. Họ chiến đấu. Nhưng không phải bằng cách thả bom, nhả đạn. Họ giết chóc. Nhưng không giết đàn ông, đàn bà, trẻ con vô tội. "Họ chiến đấu chống chính họ, bởi vì con ngườikẻ thù tệ hại nhất của con người. Tâm là địch thủ độc hiểm nhất mà cũng là người bạn tốt nhất. Không chút xót thương người Phật Tử tàn sát và tận diệt những khát vọng tham ái, sân hậnsi mê trong tâm họ". Và võ khí của họ là Giới, Ðịnh, Tuệ. Giới làm cho việc làmlời nói trong sạch. Ðịnh thanh lọc tư tương, Tuệ tận diệt những ô nhiễm (kilesa) và những lậu hoặc (asava) ẩn tiềm ngủ ngầm trong luồng nghiệp từ vô lượng kiếp. Giới và Ðịnh trau dồi Hạnh. Tuệ phát triển Minh.

Ðối với con người, minh như cặp mắt sáng, hạnh như tay chân. So với loài chim, minh như đôi mắt, hạnh như cặp cánh. Hạnh mà không minh như người tay chân liền lạc mà mù cả hai mắt. Minh mà không hạnh như người mắt sáng mà chân tay qùe quặt. Có đủ minh và hạnh cũng như người đầy đủ tay chân và có cặp mắt sáng. Một trong những phẩm hạnh của Ðức Phật là Minh Hạnh Túc, đầy đủ minh hạnh. Thiếu cả minh lẫn hạnh như người vừa mù mắt vừa thiếu tay chân và do đó không trọn vẹncon người.

Trong số những người sống trong thời kỳ còn Phật Pháp (Buddha-sàsana), tức thời kỳ còn giáo lý của một vị Phật đang được lưu truyền, có người cố gắng thực hành giới và định, tức trau giồi hạnh, nhưng không tích trữ đủ hột giống trí tuệ, tức minh, như hiểu biết sâu sắc bản chất của đời sống. Nhờ hạnh cao, người này có nhiều cơ may được gặp Phật Pháp trong thời kỳ của vị Phật vị lai, kế sau Ðức Phật Thích Ca. Tuy nhiên, vì thiếu hột giống minh, dầu có gặp Phật hay Phật Pháp, không thể chứng đắc Thánh Quả. Bao nhiêu người, bao nhiêu chúng sanh đã có duyên lành được sanh vào thời Ðức Phật còn tại tiền. Hơn nưã bao nhiêu người bao nhiêu chúng sanh được sống dưới chân Ðức Phật, chẳng hạn như những vị Tỳ Khưu, những thân bằng quyến thuộc của Bồ Tát, những vua chúa thời bấy giờ và bao nhiêu người khác, đã được nghe chính bản thân Ðức Phật dạy -- có người cũng cố gắng thực hành Giáo Pháp -- nhưng vì không tích trữ đủ mầm giống minh nên không thành tựu được Thánh Quả. Mặc dầu vậy, nhờ sự cố gắng này, các vị ấy sẽ thành công trong một kiếp sống tương lai.

Có người khác, đủ minh nhưng thiếu hạnh. Nếu được gặp một vị Phật và được nghe Giáo Pháp ắt có thể chứng đắc Thánh Quả vì có đầy đủ minh. Nhưng vì thiếu hạnh, người này có rất ít cơ may được gặp Giáo Pháp của một vị Phật. Trong hiện tại -- và trong thời gian dài dẵng giữa thời kỳ hai vị Phật -- vì không đức hạnh, người ấy không nghiêm túc trì giới, gây những nghiệp bất thiện, tạo cho mình một bản chất giống như bản chất của những chúng sanh trong bốn đường ác đạo và do đó, sau kiếp sống hiện tiền sẽ tái sanh vào bốn cảnh giới thấp kém ấy. Một khi đã lọt vào giữa đám những chúng sanh tội lỗi, tham lam, hung tợn dữ dằn ấy và phải tranh đấu để tồn tại, thật rất khó mà tự tạo một bẩm tánh thanh cao đạo đức hầu trồi lên trở lại những cảnh giới mà có thể hưởng được hương vị của Giáo Pháp.

Trên đây là hai hạng người, hoặc không thể gặp Phật Pháp, hoặc có gặp cũng không thể trọn vẹn thừa hưởng hương vị. Bây giờ, trong số những người có tích trữ đầy đủ mầm giống minh và hạnh cũng có nhiều mức độ khác nhau. Có những hột giống trửơng thành đúng mức, sẵn sàng nở mộng và đâm chồi để mọc lên thành cây con. Có những hột khác, ở vào thời kỳ đang trửơng thành. Cũng có những hột hư thúi. Khi đọc tụng câu kinh, có người để hết tâm trí vào, thông suốt ý nghĩathực hành đúng Lời Dạy. Có người chăm chú ít hơn và ít cố gắng thực hành hơn. Cũng có người không hiểu gì hết mặc dầu miệng đọc những lời vàng ngọc của Giáo Pháp, tay vẫn lần chuỗi Bồ Ðề. Vì lẽ ấy chúng sanh trưởng thành có cao thấp khác nhau, giống như ngó sen trong đầm.

Có ai biết rõ số lượng Ba La Mật mà mình đã tích trữ? Dầu sao quá khứ đã trôi qua. Ðiều tốt hơn hết và cũng rất cần thiết là nên tích trữ đồng đều Minh và Hạnh bằng cách thực hành đầy đủ Giới-Ðịnh-Tuệ. Người thiếu minh, kém sáng suốtgiới hạnh trang nghiêm sẽ có cơ may gặp Phật Pháp và nhờ đó, phất triễn trí tuệ để rồi dần dần, sẽ có ngày thành công giải thoát.

Lối sang Bờ Giác đã được rọi sáng. Chính tự mỗi người chúng ta phải đặt chân lên con đườngthận trọng tiến bước.

Hãy lắng nghe lời khuyên của Ðại Ðức Kassapa:

"Những bộ chân cừơng tráng dũng mãnh tiến bước trên con đường đầy gay go cam khổ, giữa đám giông tố bão lớn và trải qua bao nguy hiểm gian lao để lần hồi trèo lên đỉnh núi.

"Người yếu sức nghiêng ngả bên này bên kia theo chiều gió, vẫn còn quanh quẩn dưới chân đồi và, vì qúa mệt mỏi, dừng bước lại nhiều lần để nghỉ.

"Con Ðường Tám Chi ( Bát Chánh Ðạo) dẫn đến nơi an vui hạnh phúc cũng dường thế ấy. Người mạnh kẻ yếu, người cao thượng kẻ thấp hèn, chúng ta cùng nỗ lực lần hồi tiến bước trên con đường ấy. Có những bẩm tánh cương quyết, không ngại bão bùng giông tố. Cũng có những tâm hồn ươn hèn, mỏi mệt, dừng bước nghỉ chân bên đàng.

"Tất cả chúng ta đều có đủ tiềm năng vượt qua cơn giông tố để rồi một ngày kia bước chân lên tận đỉnh núi cao, nơi tuyết phủ trắng trong, rực rỡ chói lọi trong ánh sáng mặt trời."

[Hết]





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22988)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22496)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21775)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23357)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21202)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21787)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22254)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23631)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20459)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20066)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21958)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24776)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19017)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 31011)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24011)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27785)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26553)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38177)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18816)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18440)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20004)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19061)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23197)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22944)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18732)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15857)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19706)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20177)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19968)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18141)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16442)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16942)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39294)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26117)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20127)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18878)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24094)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29164)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22923)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30986)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21038)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26880)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20695)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26278)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23353)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19837)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15847)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19878)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28997)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20712)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19463)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30549)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36470)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33263)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35595)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21007)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21943)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25281)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25819)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant