Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13. Nhân Quả Báo Ứng Hiện Tiền

21 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8387)
13. Nhân Quả Báo Ứng Hiện Tiền

PHÁP NGỮ LỤC
Thích Đức Niệm
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản Phật Lịch 2535 - 1991

13. NHÂN QUẢ BÁO ỨNG HIỆN TIỀN

Kính thưa quý vị,

Người sống trên đời, nhất là Phật tử, muốn có đời sống thảnh thơi tiến bộ, chúng ta không thể nào coi thường nhân quả báo ứng.

Ngày xưa, khi tôi còn trẻ thơ, ở cái tuổi học trò tập tểnh làm quen với vần quốc ngữ A, B, C. Mỗi lần tôi ăn cơm, mẹ tôi theo dõi chăm sóc lo cho tôi. Khi nào đà cơm vào miệng, lỡ có hạt cơm rơi rớt ra ngoài, mẹ liền ngọt ngào bảo : "Con ơi! Con nên nhặt lấy những hạt cơm rớt lên ăn đi con. Đừng bỏ mà mang tội. Kiếp sau sẽ bị quả báo ăn dòi". Mẹ tôi cũng thường căn dặn chị tôi: "Này con! Đừng phung phí đồ ăn. Khi nấu cơm, lúc rửa chén, con phải cẩn thận đừng để gạo rơi cơm rớt. Hạt cơm là hạt ngọc trời cho, phải khó nhọc lắm mới có được, không khéo quí tiếc giữ gìn thì đời sau sẽ phải bị làm người bần cùng nghèo đói đó con!".

Những lời mẹ dạy như vậy, thường lập đi lập lại không biết bao lần nhắc nhở căn dặn kẻ ăn người ở trong nhà. Có những lúc mẹ tôi lấy cơm nguội đã có mùi thiêu đem phơi khô rồi hấp lại, hoặc đem trụng nước sôi để ăn. Bà làm như vậy tính đã không biết bao lần mỗi khi cơm còn thừa dư hư mốc. Không phải nhà tôi nghèo thiếu, mà thực ra mẹ tôi sợ tạo nhơn phung phí, sẽ phải chịu quả báo đói nghèo ở ngày mai.

Mẹ tôi tin Phật rất là thuần thành. Nhưng bà không có nghiên cứu kinh điển nhà Phật bao giờ. Những lời mẹ tôi dạy con cái trong nhà thường là những điều tự nhiên xuất khẩu thành lời. Những lời khuyên dạy này hàm chứa ý nghĩa sâu xa về triết lý nhân quả luân hồi của nhà Phật. Bà thường nói: "Sống ở đời phải nên biết ăn ở hiền lành. Làm lành tránh dữ. Làm thiện thì được phước. Làm ác thì phải mang họa. Cây nào quả nấy. Các con phải nên biết tội phước. Biết ăn ở có nhân có đức mặc sức mà ăn".

Những lời nói bao hàm ý nghĩa nhân quả luân hồi tội phước báo ứng này, không chỉ riêng được nghe thấy trên miệng mẹ tôi, mà bất cứ miền thôn quê chốn đô thị, nơi nào trên đất nước Việt Nam, chúng a cũng đều nghe thấy phát ra tự nhiên từ miệng các bà mẹ Việt Nam lam lũ chân lấm tay bùn. Vấn đề luân hồi nhân quả báo ứng đối với người Việt Nam quá đổi quen thuộc, nên ai cũng biết. Nhưng không mấy ai để ý nhiều đến đạo lýtác dụng của nó đối với sự việc trên đời. Cũng như không khí rất cần cho sự sống. Thiếu không khí thì sự sống không thể tồn tại. Nhưng hằng ngày không mấy ai để ý đến đặc tính quan trọng của không khí đối với sự sinh tồn của vạn vật sinh linh. Tuy nhiên, ta cũng phải thừa nhận rằng, tư tưởng về nhân quả luân hồi của nhà Phật đã thấm sâu vào buồng tim lá phổi huyết quản thịt xương của mọi tầng lớp người dân Việt nói riêng, người Á Đông nói chung. Triết lý nhân quả luân hồi thấm sâu vào tâm thức người dân Việt Nam, như không khí thấm sâu vào tận thịt da, tràn qua buồng tim lá phổi xương tủy của mọi người, nuôi trọn kiếp sống.

Thường ngày, chúng ta sống không thể trong một phút giây thiếu không khí. Nếu thiếu không khí trong giây lát, mạng sống của ta liền theo đó kết thúc, thân xác của ta trở nên ghê tởm vô dụng. Không khí rất trọng yếu cho mạng sống như thế đó. Nhưng hằng này có mấy ai để ý đến không khí đâu? Có mấy ai tỏ ra tha thiết quí mến không khí đâu?

Cũng vậy, tin nhân quả nghiệp báo có thể làm cho con người có một cuộc sống an lành, tiến đến chơn thiện mỹ. Lẽ phải điều thiện có khả năng đưa con người ngày thêm được cuộc sống an lành thánh thiện tiến bộ. Nhưng thử hỏi được mấy người thực lòng thiết tha với điều hướng thiện? Thói thường thì, khi người ta dùng thì giờ để làm việc nghĩa, cứu giúp người, đi học đạo, nghe thuyết pháp giảng kinh, làm những điều lành thiện thì người ta cảm thấy khó khăn, bận kẹt! Người ta bảo là không có thì giờ. Nhưng đi coi hát, ăn tiệc, dạ hội, shopping, dạo phố, suốt ngày thâu đêm miệt mài trong sòng bạc rượu chè, bè bạn giỡn cười, nói nhảm, với những việc này thì lúc nào cũng có thì giờ và còn sốt sắng nữa là đằng khác.

Ta thử hỏi đã được mấy ai xin nghỉ phép để làm việc thiện, học đạo, tụng kinh, tọa thiền, đến chùa làm công quả bòn phước cầu tiến? Nhưng người ta sẵn sàng xin nghỉ phép để đi chơi, dự tiệc, đánh bạc. Có mấy người mượn tiền để làm việc phước thiện, bố thí, xây chùa, đúc tượng Phật, in kinh ấn tống? Nhưng người ta hăng hái mượn tiền để đánh bạc, để làm đám cưới, đãi bạn bè, để đi du lịch, để cho người khác vay lấy lời, để buôn bán. Đi nhảy đầm, ciné, hát xướng được cái vui ồn ào tạm bợ nhất thời của cảm giác. Nhưng liền sau đó mệt mỏi, lòng cảm thấy trống trải cô đơn như trước, thế mà người ta vẫn đắm đuối phung phí thời giờ, tiền bạc để lăn vào. Nghe thuyết pháp, tụng kinh, tọa thiền, làm việc đạo đức phước thiện, được người kính mến nể vì, tạo công đức cho mình, đồng thời để đức cho con cháu, làm gương mẫu hướng dẫn con cháu, thì người ta lơ là không mấy quan tâm. Làm việc đạo đức tiến thân thì lại uể oải đợi người mời thỉnh, được nài nỉ khuyến khích mà lòng vẫn e dè từ chối! Muốn suốt đời phục dịch cho con, cho cháu, tuy con cháu đã lớn khôn, chúng nó chẳng cần màng đến mà vẫn cứ thích lo, thích phục dịch. Người đời còn thích làm mai làm mối, tuy không ai nhờ cậy, cũng chẳng được lợi lộc gì, nhưng lại muốn lăn vào, để rồi khi giàu có hạnh phúc chúng chẳng biết ơn, thiếu đầm ấm chúng án trách. Ưa thích tham dự tiệc tùng, hè hội đình đám, ưa nói chuyện thị phi, hiếu kỳ tìm tòi mọi chuyện của người chẳng có liên quan gì đến mình, đó là thói đời tánh người kém phước vụng tu, nên tiêu phí thời giờ quý báu vào việc phàm tục.

Lại có kẻ vì nể bạn bè khuyến dụ, hoặc nhận được ít tiền lẻ, vật dụng cũ hư, liền bỏ chánh đạo, theo tà ma ngoại đạo, say mê đến tán gia bại sản, điên khùng mất mạng. Đó là những kẻ hình người mà tâm đã bị tà ma nhập. Những người này hoặc họ mới vừa trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ra, hoặc mới từ thế giới yêu ma đầu thai làm người. Nên phí mất thời giờ, oan uổng một đời cho việc tà ngụy, hậu quả chỉ tạo thêm nghiệp ác, để rồi đọa lạc trở lại vào chốn tối tăm. Đến với đời bằng tâm niệm bất chánh, hành động vụng dại. Ra đi cũng chẳng để lại công đúc danh thơm gì cho đời, chẳng làm được chút công đức gì cho mình. Thật đáng tội nghiệp cho những kiếp chúng sanh nặng nghiệp như thế.

Chúng ta thử ngồi tỉnh tâm tính nhẩm xem. Từ ngày cha mẹ sanh ra cho đến ngày ta thực sự biết đời, phát tâm học đạo, biết tu tâm dưỡng tánh, suốt quãng thời gian mấy mươi năm trước đó, ta đã lăn lộn bon chen với đời, lo học tập, lo ái tình chồng vợ, con cháu, danh lợi, đủ thứ lo. Đến khi biết học đạo tu tâm, làm việc nghĩa, thì tuổi đời đã lớn già sức yếu, mà tâm đạo chưa vững, chưa có chuyên cần tinh tấn, chưa hiểu ngộ được lý vô thường: "Sớm còn tối mất". Suốt tuần lễ bảy ngày (7 x 24 = 168 giờ), ta chỉ lo cho cái sống bản thân gia đình, chồng vợ con, trong ích kỷ tham sân si. Họa hoằn lắm chỉ một vài giờ của ngày chủ nhật, hoặc ngày rằm, vía, đi học đạo, nghe giảng mà ta cũng không thực hành đều đặn thuần nhất.

Càng tội nghiệp hơn, có những người thân tuy chưa đến chùa viện, mà tâm vẫn nghĩ đến việc nhà, lo âu việc đâu đâu, nên trông cho khóa lễ cầu nguyện, thời thuyết pháp cho mau chấm dứt, để bươn bã về lo việc nhà hoặc đáp ứng hò hẹn với bạn bè. Đó là chưa kể có những người khi đến chùa gặp bà con bạn bè đem bàn chuyện thế tục thị phi, không để ý đến việc tụng kinh, niệm Phật, bái sám, học đạo. Họ coi nhẹ sự nghe thuyết pháp, niệm Phật, tọa thiền, xem thường sự tu dưỡng của chính mình. Lại còn có người lúc hứa cúng dường việc này, góp phần công đức kia, nhưng rồi không thực hiện theo lời hứa của mình. Lại có người phát nguyện rằng, khi con tôi lớn khôn, hoặc khi gia đình sum họp, hoặc lúc tôi vào tuổi nào đó, hoặc khi gặp thầy chân tu thật học thì tôi quy y, vào chùa làm công quả tu tập, ăn chay, xuất gia, nhưng rồi lần lựa hẹn rầy hẹn mai, không thực hiện, cho đến ngày đậy nắp quan tài, đem ra ngoài gò hoang, mà vẫn chưa thực hiện lời hứa.

Phật xưa có dạy: "Ngày nay trôi qua, mạng sống giảm dần, như cá hết nước, nào có vui chi. Các ngươi phải luôn luôn nghĩ nhớ như thế, để chuyên cần tinh tấn, gấp rút tu tĩnh, như gấp rút cứu lửa cháy trên đầu".

Ngày tháng trôi qua quá mau chóng. Ta không sớm phản tĩnh tự tâm, mà cứ mãi chìm đắm với ái ân dục tình, thù tạc bạn bè, với những ảo tưởng danh lợi, lạc thú hư huyễn của thế gian, cứ tưởng mình sống đời đời với của cải, tiền tài, vợ con, thì thật là mê muội đáng thương! Cổ nhân đã chẳng từng nhắc nhở:

Mấy ai sống được đến trăm,

Lòng người thế sự ngàn năm chẳng vừa.

Người đời khổ lụy hơn thua,

Việc tu xem nhẹ, nặng lo đua đòi.

Ngày tháng như thoi đua! Hạnh phúc như sương sớm đầu cành! Mạng người mong manh như hoa phù dung buổi sáng! Hiện trạng vô thường như thế đó. Sao chúng ta không la lớn, gào thét to lên để cùng nhau cảnh tĩnh đồng tu, tìm về nơi an lạc giải thoát. Thiền tổ nói: "Thế gian vô lượng khổ, sao không khuyến đồng tu".

Đáng buồn thương thay, có kẻ tự xưng mình là Phật tử, quy y từ thuở bé, khoe khoang ăn chay, niệm Phật, đi chùa đã mấy mươi năm, tụng kinh Đại thừa, trì chú Lăng Nghiêm, hiểu biết giáo lý, quen biết những bực danh tăng, Hòa thượng này, Thượng tọa kia, cứ ảo tưởng mình hơn người khác. Nhưng lòng tham sân, tánh ngã mạn kiêu căng, thích phê bình chỉ trích thêu dệt chuyện của người khác không giảm chút nào. Họ phán đoán người khác là xấu là dở. Nhưng họ quên đi chính họ. Họ không tự xét, không bao giờ có lấy một lời phê bình chính mình. Nếu ai không dằn được hành vi trái tai gai mắt với Phật pháp của họ, mà có lời chân thật khuyên nhắc thì họ giận hờn. Ca dao có câu:

Tham sân nghiệp chướng không chừa, 

Bo bo mà giữ tương dưa làm gì.

Tu là phải sửa tâm tánh, cố gắng dứt sạch giận hờn đố kỵ tham sân si, để đạt đến vô tâm, thể hiện từ bi hỷ xả. Việc gì qua rồi thôi, đừng nên luyến tiếc. Luyến tiếc thì đưa đến trạng thái tâm lý mơ mộng khổ đau, buồn thương tủi hờn. Vô tâm thì không chấp trước. Không chấp trước thì mới có được cái thanh thoát của từ bi hỷ xả, mới đạt đạo. Hương Hải thiền sư đã khuyên vua Lê Dụ Tôn, tu Phật thì phải nên vô tâm:

Tìm trâu, tìm dấu chân trâu,

Dấu còn trâu, trâu chẳng mất đâu bao giờ.

Xin ai học đạo chớ ngờ,

Vô tâm thì đạo có cơ dễ tìm.

Học đạovô tâm thì dễ đạt đến giác ngộ giải thoát. Vô tâm thì không còn dính mắc buộc ràng, mới tiến xa, biết rộng hiểu nhiều. Vô tâm mới mong thấy được tất cả những tinh hoa của vũ trụ, cái đẹp của lòng người. Chừng nào đạt đến vô tâm, thì chừng đó mới đạt đạo giác ngộ giải thoát.

Ngày xưa mẹ tôi lo cho con cái, dạy dỗ chúng tôi, bận rộn suốt ngày, nhưng không bao giờ bà quên trọng nể lễ nhân quả luân hồi. Tất cả việc làm, tâm niệm của bà đều tin vào lý luân hồi nhân quả báo ứng. Bà chẳng bận tâm lo lắng. Nên ngày mẹ tôi qua đời trong một bình minh trời thu trong sát mát dịu. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ba an nhiên căn dặn: "Các con biết ráng tu. Tu bồi phước đức mặc sức mà ăn. Như thế là các con hiếu với mẹ rồi đó. Chớ nên buồn khóc theo thường tình thế gian. Có làm tuần thất siêu độ cho mẹ, con nên theo hạnh hiếu của đức Mục Kiền Liên, là mẹ vui lòng rồi".

Mẹ tôi khi còn ở đời thường khuyên con cháu: "Việc gì qua để cho nó qua, đừng nhớ tưởng làm chi thêm nặng lòng mệt óc. Mọi việc ở đời thiện ác, tốt xấu, thăng trầm, vinh nhục không ngoài nhân quả. Các con phải nhớ, phải sợ".

Kẻ không sợ nhân quả là kẻ không còn lương tâm đạo đức. Không còn lương tâm đạo đức thì dễ tạo thành tội ác khủng khiếp. Chắc ai cũng nhớ Tết Mậu Thân 1968, khi cộng sản tấn công chiếm đóng các làng mạc đô thị miền Nam, đặc biệt là thành phố Huế, quân đội cộng sản dưới quyền chỉ huy của một viên tướng tên là Lê Lý. Không biết vì oan gia nghiệp báo đã gây từ đời nào, hay tên Lê Lý này đã được đào tạo kỹ lưỡng từ lò chủ nghĩa vô thần thú tánh vô lương tâm, mà tướng họ Lê này đã ra lịnh bắt thanh niên xứ Huế lao công gánh vác rồi sát hại tập thể. Mặt khác lại ra lịnh bắt giết tập thể những đồng bào vô tội lên đến hơn hai ngàn người. Điều này tạo cho thành Huế, xứ cố đô trầm lặng, cái không khí kinh hoàng, tang thương bi thảm xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Báo chí và dư dư luận thế giới đã bàng hoàng xúc động xôn xao trước cái thảm trạng tàn ác tày trời của cộng sản. Vì thế, tên tướng cộng sản họ Lê này chẳng bao lâu sau đó cũng bị cách chức tư lịnh và bị thuyên chuyển về Hà Nội giáng chức làm thanh tra trung tiểu học! Làm thanh tra quèn, không còn cái uy phong lẫm liệt quyền thế dưới trướng có hàng vạn quân của một viên tướng ở trận mạc nữa.

Một hôm đi thanh tra, có lẽ ông ta cưỡi chiếc xe đạp cũ kỹ, mỏi mệt trên những đoạn đường dốc sỏi đá gồ ghề của xứ Bắc bị bom đạn tàn phá nghèo nàn, trên không trung thỉnh thoảng bất thần từng đoàn máy bay, khổng lồ ồ ạt dội bom, những cảnh tượng hãi hùng khủng khiếp uy hiếp mạng sống bất cứ lúc nào, làm cho viên tướng thất sủng này khủng hoảng tinh thần. Bằng chiếc xe đạp, trên con đường dài liên tỉnh đi công tác thanh tra, chắc ông ta đã chán nản mỏi mệt với chiếc xe đạp, nên giữa đường đã xin đi nhờ trên một chiếc xe be chở đầy gỗ nặng. Chiếc xe đang trên đà lên dốc, bỗng nhiên đứt thắng, xe tuột thẳng xuống hố đổ nhào. Tên tướng thất sủng Lê Lý này đã bị gỗ đè, thân xác tan nát như một quả cà chua chín mùi. Thế là xong một đời! Trong lúc đó, viên tài xế xe và vài người lơ phụ cũng như những người tùy tùng của Lý chỉ bị thương nhẹ thôi.

Cổ nhân thường dạy: "Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu. - Lưới trời lồng lộng không trông thấy, nhưng không một mảy lông thoát khỏi". Nhân quả báo ứng nhãn tiền biết bao lần diễn ra trước mắt mọi người, mà chúng ta đã từng chứng kiến. Nhưng người đời vì quá dễ dãi tha thứ cho mình, bởi vô minh dục vọng che lấp chân tánh trí tuệ, kém phân định chánh tà, mà dễ quên đi điều hướng thiện. Do đó, con người mãi sống theo tình thức, trần duyên lôi cuốn để rồi đi sâu dần vào tội lỗi. Thiền đức dạy: "Nghiệp quả sở khiên thành nan đào tỵ.- Một khi nghiệp quả đã kéo lôi rồi, khó mà trốn thoát được".

Tên tướng Lê Lý thất sủng kia đã tạo tội giết người tập thể, sau đó phải chịu cái chết banh xác thảm thế Câu chuyện trên đây do một tên cộng sản LKN cùng đi trên chiếc xe be đó còn sống sót kể lại. Sau năm 1975 cộng sản chiếm Saigon, tên LKN này vào Saigon làm việc trong chỗ thân tình bè bạn, kể lại chuyện trên.

Tại miền Nam trước năm 1963, ai cũng biết danh tiếng của Ngô Đình Nhu cố vấn tổng thống Ngô Đình Diệm là một con người đầy tham độc ác kế, để rồi sau đó ông ta nhận lấy quả báo thảm thương! Cổ đức Thánh hiền nói: "Mưu thâm họa diệt thâm". Nhà Phật nói: "Nhân nào quả nấy".

Cổ nhân dạy: "Thiện ác đáo đầu chung hữu báo". Nghĩa là việc thiện ác đã gây ra, thì chậm mau trước sau gì rồi cũng nhận chịu, không thể chạy tránh được. Người đời bởi mây mù tham lam sân hận si mê ích kỷ che phủ lương tri, nên quá dễ dãi với mình, hoặc liều lĩnh vì cái lợi trước mắt, hoặc cuồng vọng vì muốn được hưởng thụ, mà khinh thường nhân quả báo ứng, rồi buông lung hành vi tạo tác hằng ngày gây không biết bao là tội lỗi.

Nhân quả báo ứng là luật công bằng không dành riêng cho bất cứ một ai. Để kết luận bài này, tôi xin mượn bài thơ của thi hào Nguyễn Du:

Đã mang lấy nghiệp vào thân,

Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa.

Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23330)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27520)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26585)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29353)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20216)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20945)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29863)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22160)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24421)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29310)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21102)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28112)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29229)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20643)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28321)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23675)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33230)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31875)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39665)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19405)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26432)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24855)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21772)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29165)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20486)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21258)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35374)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24575)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31374)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26254)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20307)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22995)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30109)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21637)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20310)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20809)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28834)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34778)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22589)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21408)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29554)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35208)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28857)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37944)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21359)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27257)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24100)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20883)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34349)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22517)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25162)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant