Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Cây Nào Quả Nấy

21 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8642)
14. Cây Nào Quả Nấy

PHÁP NGỮ LỤC
Thích Đức Niệm
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản Phật Lịch 2535 - 1991

14. CÂY NÀO QUẢ NẤY

Thưa quý vị,

Mỗi tuần quý vị về Phật Học Viện Quốc Tế để nghe giảng kinh thuyết pháp tu tập, chắc quý vị cảm thấy lòng vơi nhẹ đi bao nỗi nặng nhọc suốt tuần lặn lội với đời vì kế sinh nhai. Những lời giảng kinh Phật là những liều thuốc bổ tinh thần vô giá. Tôi còn nhớ một đoạn trong kinh Bách Dụ, Đức Phật nói:

"Xưa có một thanh niên, lúc nào cũng tỏ vẻ hiên ngang hào hiệp, lịch thiệp để cho mọi người chú ý tán khen. Một hôm trên đường ngao du, bụng đói, đói lắm, anh đến tiệm bánh mua một lượt sáu cái, ăn luôn một hơi mà vẫn chưa thấy đã no. Anh lại mua thêm một cái bánh nữa, nhưng chỉ ăn mới một nửa thôi, anh cảm thấy quá no, lại ngán không cách nào nuốt thêm được nữa. Lúc đó lòng anh sanh buồn não, thầm trách mình, rồi tự lấy tay đánh lên đầu mà nói rằng: Sao ta ngu quá không biết tính toán tiết kiệm gì hết. Nếu như ta biết nửa cái bánh cuối cùng mà có thể làm cho ta no như vậy, thì ta chỉ cần mua nửa cái bánh ấy thôi, ăn đủ no rồi, cần gì phải mua chi đến sáu cái cho tốn kém tiền bạc!"

Câu chuyện trên nhắc nhở cho những ai thường hay trách trời oán người, lòng luôn luôn so đo thắc mắc. Ở đời có hạng người thắc mắc oán trách so đo với người khác mà không xoay lại kiểm điểm quán xét mình. Họ trách rằng tại sao các nhà tu hành được mọi người kính trọng, cúng dường, ủng hộ? Khi nói vậy nhưng họ có biết đâu những vị này, trước đã nhiều đời tu phước, và ngày nay khi mình chưa quen biết, thì họ cũng đã trải qua bao nhiêu năm tháng hành đạo khắc khổ, thức khuya dậy sớm, tương chao đạm bạc, công quả, tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền. Họ đã chuyên tâm âm thầm tích lũy phước đức. Nhờ công đức hành đạo đó, họ mới được mọi người kính ngưỡng bái phục vâng theo.

Rồi lại thấy có người hiện đời làm điều bất chính, bất lương, mà lại vẫn được sung sướng giàu sang danh vọng. Điều đó nào phải tự nhiên giàu sang danh vọng như vậy đâu! Hiện đời tuy họ có thể hưởng giàu sang danh vọng, có thể hưởng một giai đoạn nào đó trong đời họ, hoặc có thể hưởng suốt đời họ đều tùy theo phước đức họ đã gieo trồng từ bao đời trước nhiều hay ít. Còn hành vi tâm niệm xấu ác của họ ngày nay thì họ sẽ phải trả đời họ ngay trong đời này, hoặc đời sau.

Do đó, xã hội này mới có người giàu kẻ nghèo, người đẹp kẻ xấu, người sang kẻ hèn, người khôn kẻ dại, chứ nào phải tất cả những người giàu sang danh vọng là bất chính bất nhân hết đâu? Và có ai dám chắc mình hưởng giàu sang suốt đời? Như người làm vườn, ta thấy vườn anh A hoa trái sum sê, nhiều người đến mua, tiền bạc vô hằng ngày. Anh và vợ con anh áo quần mới mẻ, nhà xe tốt đẹp, chúng ta đâu có biết cách đây bảy năm, anh đã cùng vợ con ngày ngày dãi dầu mưa nắng, chân lấm tay bùn, cần mẫn canh tác, ăn cơm nguội canh lạnh, áo quần cũ rách bụi nhơ, làm việc đầu tắt mặt tối. Lúc đó tất cả tâm huyết năng lực của anh dồn cho khoảnh vườn, nên ngày nay khoảnh vườn của anh hoa trái xanh tươi. Sự giàu sang của anh ngày nay là kết quả của bao lam lũ công phu vun trồng trong những năm trước.

Cũng vậy, chân giá trị của vị bác sĩ, kỹ sư, tiến sĩ, nhà khoa học, nhà bác học đâu phải cố gắng một ngày, một tháng, một năm mà thành đạt? Ngày nay họ được đời trọng vọng, chúng ta đâu có biết những vị này đã trải qua bao năm tháng nhịn ăn nhịn ngủ, đói khổ nhọc nhằn chuyên cần học tập nghiên cứu mới được văn bằng chức phận ngày nay. Bởi thế, kinh Phật dạy rằng:

"Dục tri tiền thế nhơn, kim sanh thọ giả thị.

Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị".

Có nghĩa là:

"Muốn biết đời trước họ tạo nhơn gì, thì cứ nhìn đời nay họ được hưởng.

Muốn biết đời sau họ chịu quả báo như thế nào, thì xem việc làm của họ đời nay".

Muốn thành công trên đường đời hay đường dạo, phải kiên trì bền chí một lòng theo đuổi lý tưởng của mình với suốt tháng năm, mới mong được như ý nguyện. Nhưng người đời thiếu trầm tĩnh suy tư, nên thường thấy hai hiện trạng tâm lý:

1) Thấy người người ác mà được giàu, người lành mà phải nghèo, rồi sanh ra chán nản oán trách. Nào có biết sự tương quan nhân quả suốt cả ba đời quá khứ, hiện tạivị lai.

2) Khi nghèo khổ thì có lòng nghĩ về đạo đức, lo làm việc thiện, tu phước, sống đời sống khiêm tốn, ít bạn bè, lo nghe kinh thuyết pháp, tụng niệm. Nhưng khi khá giả giàu sang thì lại lo làm giàu thêm, lơ là việc tu học, làm phước đức. Ngày ngày đâm đầu bận kiếm cho được nhiều tiền, đuổi bắt danh vọng, thù tạc bạn bè. Do đó, dần dần tâm đạo sa sút, xa Phật xa Thầy. Khi cực khổ vun phân tưới nước thì cây phước được xanh tươi. Đến khi cây ra hoa kết trái, thì lại chỉ lo ngồi hưởng thụ, không biết tiếp tục săn sóc bón phân tưới nước, thì cây phước phải cằn cỗi, hoa trái phước lộc phải xơ xác điêu tàn là lẽ tất nhiên. Cũng vậy, khi còn nghèo khó còn thì giờ để tâm làm phước đức. Đến khi khá giả giàu có thì mãi miết lo làm giàu thêm, kết bạn hưởng thụ, đuổi bắt lợi danh, xa dần việc phước thiện. Rồi khi tai nạn xảy đến lại đi cầu khẩn Phật trời thánh thần! Thật là tội nghiệp cho người đời lẩm cẩm! Không muốn trồng cây mà chỉ muốn ăn quả. Không chịu ra công vun sới bón phân tưới nước nhổ cỏ, mà cứ muốn hái trái tốt hoa đẹp. Chẳng khác nào kẻ nấu cát muốn thành cơm.

Để kết luận bài này, tôi xin xác quyết rằng: "Đời người sáng sủa hay tối tăm, đều do chính con người trọn quyền quyết định lấy, chứ không ai khác". Khéo sử dụng bàn tay và khối óc của mình với cõi lòng rộng mở, thì đời mình trở nên sáng sủa an lành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27519)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26583)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29346)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20214)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20943)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29858)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22152)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24418)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29307)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32181)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21095)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28111)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29224)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20640)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28317)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23671)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33221)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31874)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39663)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19404)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26430)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24854)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21765)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29162)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20483)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21252)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35370)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24569)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31372)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26251)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31266)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20301)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22992)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30105)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21623)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20305)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20806)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28827)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34774)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22583)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21403)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29547)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35205)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28855)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37943)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21354)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27253)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24095)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20878)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34343)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22514)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25155)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant