Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20. Nguồn Gốc Võ Thiếu Lâm

21 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8608)
20. Nguồn Gốc Võ Thiếu Lâm

PHÁP NGỮ LỤC
Thích Đức Niệm
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản Phật Lịch 2535 - 1991

20. NGUỒN GỐC VÕ THIẾU LÂM

Kính thưa quý vị,

Hôm nay tôi trình bày về nguồn gốc võ Thiếu Lâm. Bởi có sự nhận thức sai lầm về nguồn gốc của môn võ nghệ này liên quan đến Phật giáo, nên tôi muốn minh định cho rõ ràng từ đâu có sự nhận định sai lầm.

Khi nói đến võ nghệ cao cường của Trung Quốc, thường thì người ta liên tưởng đến "võ Thiếu lâm", và cho rằng môn võ này xuất phát từ Thiếu Lâm Tự. Nói đến võ Thiếu Lâm, người ta lại liên tưởng đến Đạt Ma Tổ Sư, và nghĩ rằng chính Đạt Ma Tổ Sư là người truyền dạy môn võ công tuyệt diệu này.

Không ít người lầm tưởng cho rằng, sau khi Lương Võ Đế thỉnh Đạt Ma Tổ Sư vào cung để cúng dường hỏi đạo, Tổ nhận thấy vua Lương là người rất sùng mộ đạo Phật, nhưng chỗ kiến giải lại rất thường, chưa thoát khỏi tâm thức chấp trước, nên không thể lãnh hội nỗi ý chỉ siêu việt của Thiền Tông "ấn tâm hiển tánh". Do đó Đạt Ma Tổ Sư lặng lẽ rời hoàng cung Lương Võ Đế để đến chùa Thiếu Lâm, xoay mặt đối vách tĩnh tọa suốt 9 năm liền. Người đời cho rằng chính trong thời gian 9 năm trầm lặng này, Đạt Ma Tổ Sư đã bí mật truyền võ nghệ cho môn đệ. Nghĩ tưởng như thế thật là một điều ngộ nhận rất ư sai lầm. Lại chẳng may quan niệm sai lầm to lớn này ngày nay đã tràn lan khắp cả các nước Âu Á. Quan niệm sai lầm oan uổng này được lan truyền rộng lớn như sự rộng lớn của nền văn hóa Trung Hoa, ảnh hưởng từ nước này tới nước khác. Quan niệm sai lầm này đã hình thành không những chỉ bằng truyền miệng, sách báo, mà cả phim ảnh truyền hình, hành hoạt phổ biến như là một sự thật. Tầm vóc lớn lao của vấn đề đến nỗi người Âu Mỹ họ quan niệm bất cứ ai mặc tràng rộng của Tăng sĩ Phật giáo hầu hết đều là công phu Master! Những phim ảnh nào về võ công kiếm hiệp, có chút liên quan đến Thiếu lâm Tự để quảng cáo, thì ôi thôi là ăn khách quá chừng chừng!

Nhưng theo các bộ sử Thiền Tông, nghiên cứu từ cội nguồn truyền thiền đến ngày nay, Đạt Ma Tổ Sư là người Ấn Độ đem thiền truyền vào Trung Hoa, và được suy tôn là Sơ tổ dòng Thiền xứ này. Người được vua Lương Võ Đế trọng vọng tôn kính thỉnh vào hoàng cung để cúng dường hỏi đạo. Nhưng chưa gặp người có chí đạo liễu thoát lưới chấp, nên Đạt Ma Tổ Sư đã từ tạ cung vàng điện ngọc, sự cung phụng rất mực nồng hậu của triều đình vua Lương để ra đi không một mảy may vướng bận. Người ra đi nuôi chí hóa đạo độ đời, truyền thiền giác thế.

Dưới mắt thiền sư, danh lợi phồn hoa của cuộc đời như mây chiều sương sớm. Thân này do đất nước gió lửa giả hợp hình thành. Cảnh đời vô thường mộng huyễn. Một lời còn không muốn thốt ra, hà huốngvăn tự trọn chẳng màng đến. Khí khái dứt khoát, tư tưởng siêu việt, xem nhẹ việc đời như cát bụi. Mang tâm nguyện siêu việtđại thế đó, Đạt Ma Tổ Sư đã xa lìa xứ sở, vượt biển cả muôn vạn sóng gió trùng dương, trùng trùng hiểm nguy, dứt khoát từ tạ tôn sùng ngưỡng mộ của vua chúa, để rồi có thể thu mình làm cái việc dạy võ công ở chốn thiền môn Thiếu Lâm Tự ư? Hỏi tức là trả lời. Thế mà người đời, sách vở, báo chương, điện ảnh, lại cứ rao truyền cho Đạt Ma Tổ Sư chính là vị tổ truyền dạy võ, nguồn gốc của môn võ Thiếu Lâm?

Trên thực tế, thật có chùa Thiếu Lâm ở núi Cao Tung, tỉnh Hà Nam huyện Đăng Phong. Thật có môn võ Thiếu Lâm. Và thật có việc Bồ Đề Đạt Ma từ tạ vua Lương Võ Đế để đến ở chùa Thiếu Lâm Tự 9 năm ngồi xoay mặt đối vách tĩnh tọa thiền quán.

Nhưng nguyên nhân nào mà người đời truyền rao Đạt Ma Tổ Sư chính là vị tổ truyền dạy môn võ Thiếu Lâm?

Nguyên là vào thời Bắc Ngụy có ngài Phật Viện Thiền Sư từ Ấn Độ đến Trung Hoa truyền Thiền. Lúc bấy giờ vua Ngụy Hiếu Minh Đế (Tây Lịch 515-528) kính mến đạo đức của Ngài, nên lập ngôi chùa Thiếu Lâm trong dãy núi Cao Tung để Ngài tu hành truyền đạo. Chùa Thiếu Lâm nằm trên một trong năm ngọn núi cao tên là Lộc Sơn Thiếu Thất. Sau đến đời Lương Võ Đế (Tây Lịch 501-549), nhơn Sơ Tổ Đạt Ma truyền tâm ấn cho Nhị Tổ Huệ Khả cũng chính ngôi chùa Thiếu lâm này, từ đó tông phong Thiền chấn hưng. Do từ đấy, tự nhiên Thiếu Lâm Tự trở thành thánh địa của Thiền Tông. Chứng tích hiện còn, chứng tỏ nơi già lam Thiếu Lâm Tự này vang bóng một thời với diện tích rộng chừng 3 cây số vuông, trang nghiêm hùng vĩ, thịnh đạt vô cùng. Đặc biệt đồ biểu luyện tập võ công vẫn còn hằng sâu dấu tích nơi vách cỏ rêu phong trong khuôn viên chùa.

Thiếu Lâm khởi nguyên từ thời Tam Quốc, khi Hoàng Cấn làm loạn. Lúc bấy giờ, lũ người theo giặc Hoàng Cấn lợi dụng tình thế loạn lạc, kết bè lập đảng thành từng bọn, thường vào chùa Thiếu Lâm tác yêu, tác quái, uy hiếp cướp phá nhiễu nhương. Tăng chúng không an tâm tu hành. Đang lúc tâm tình phân vân, tăng chúng người nào cũng tính chuyện tản lánh vào rừng núi để ẩn tu. Một hôm đang lúc giặc cướp vào, tăng chúng bối rối, khiếp sợ, bỗng nhiên, từ nhà trù, tức nhà bếp chùa, chạy lên một người to lớn khỏe mạnh, vốn xưa nay âm thầm làm công quả, bửa củi, gánh nước, lo việc ăn uống cho chúng tăng, không mấy ai để ý. Người to lớn này tay cầm búa, cất tiếng rằng: "Xin đại chúng đừng lo. Lão tăng sẽ dùng búa này đánh tan lũ giặc cướp". Nói dứt lời, nhanh như chớp, lão tăng vung búa như điệu múa, xông thẳng vào đám giặc. Không mấy chốc lũ giặc thất kinh, hồn bay phách tán, chạy tán loạn. Từ đó, chùa trở nên yên tĩnh, sinh hoạt bình thường. Mọi người thở phào nhẹ nhỏm như trút được gánh nặng ngàn cân đè nặng đang đi trong bãi gai dưới nắng sa mạc.

"A Di Đà Phật. Thầy Tri Khố! Từ lâu nay, ngày ngày Thầy lo việc gạo củi nấu ăn cho tăng chúng. Không ngờ Thầy có võ nghệ tuyệt vời, cứu được ngôi Già Lam thoát qua cơn đại nạn. Tăng chúng huynh đệ còn được xum họp tu hành. Thật là vạn hạnh, vạn hạnh! Công đức của Thầy thật là vô lượng", Thầy Tri Sự nói.

Qua cơn hãi hùng, Tăng chúng chùa Thiếu Lâm vô cùng vui mừng vây quanh vị lão tăng Tri Khố, khác miệng một lời, đua nhau xít xoa mừng rỡ ca tụng: "Thầy Khố tài quá! Chúng tôi muốn học võ công. Mong Thầy hoan hỷ cho chúng tôi để phòng thân hộ đạo, gìn giữ ngôi Tam Bảo".

Từ đó về sau, vị lão tăng Tri Khố được người trong chùa chiếu cố, không còn nhiều thì giờ yên tĩnh để tham thiền niệm Phật như trước nữa. Trước kia, ngoài công việc nấu ăn dọn cơm, rửa chén, bửa củi gánh nước, còn lại chút thì giờ nào, thầy tọa thiền bái sám niệm Phật tụng kinh. Giờ đây, với sự thành khẩn nài nỉ xin học võ của tăng chúng, lão tăng Tri Khố trước thế chẳng đặng đừng, không còn cách nào yên lặng thối thác được, nên đem tất cả tuyệt kỷ võ công dạy hết.

Sau khi Tăng chúng đã thuần thục võ nghệ, lão tăng Tri Khố vào một đêm trăng rằm tháng tám Trung Thu, âm thầm lặng lẽ rời chùa Thiếu Lâm, nhẹ bước vân du sơn thủy, tham bái các Đại Tòng Lâm danh lam thắng cảnh, không để lại tông tích, cũng không ai biết người tên họ là chi, ngoài cái tên Thầy Tri Khố do tăng chúng gọi.

Để tri ân người đã hộ trì chốn Già Lam thanh tịnh, tăng chúng đã tạc tượng thờ kỷ niệm. Từ đấy truyền ra, người ta tạc tượng Ngài mặt đen, tay cầm búa, thường tôn trí ở nhà trù hoặc là ở trai đường trong các chùa viện và tôn xưng là Giám Trai sứ giả. Cũng còn tôn xưng danh hiệu Ngài là Khẩn Na La Vương Bồ Tát. Chùa Thiếu Lâm hiện vẫn còn thờ Khẩn Na La Vương Bồ Tát với đôi liễng:

"Trai đường mộc bảng tăng vân tập,

Lũ giặc kinh hồn búa sắt bay"

Vào thời sơ Đường, chùa Thiếu Lâm có mười ba vị tăng võ nghệ cao cường. Đó là sư Chí Thảo, Huệ Thang, Đàm Tông v.v... đã từng da ngựa bọc thây, gian khổ xông pha trận mạc giúp vua Đường Thái Tông dẹp Vương Thế Sung, tên lãnh chúa có thế lực nhất, tung hoành miền Bắc Trung Hoa thời bấy giờ. Kịp đến khi vua Đường Thái Tông thống nhất sơn hà, lập nên đế nghiệp, phong quan ban lộc cho 13 vị tăng hữu công này, thì chỉ riêng sư Đàm Tông nhận chức Đại tướng quân, còn lại tất cả đều từ chối công hầu khanh tướng, lui về Thiếu Lâm Tự tiếp tục tu hành. Nhà vua cảm mến ân khai quốc công thần, nên cấp ruộng cho tiền để các Thầy về chốn thiền môn thanh tịnh an tâm tu hành.

Đến thời Minh mạt Thanh sơ, các vua triều nhà Thanh hầu hết là tin Phật. Hễ ai phạm tội mà biết hối cải xuất gia thì được triều đình xá miễn không truy cứu phạt tội. Triều đại nhà Minh tuy mất, nhưng còn có số các trung thần tướng lãnh nhà Minh vẫn còn sống sót. Họ trốn vào chùa Thiếu Lâm xuống tóc làm tăng. Họ lợi dụng tình thế, bí mật kết nạp đồng liêu, lập đảng, luyện tập võ nghê. Họ đã khéo léo tuyên truyền khuyến dụ kết hợp những môn phái Võ Lâm họp thành một tổ, lấy tên là "võ Thiếu Lâm" với danh nghĩa "phản Thanh Phục Minh!". Và lấy chùa Thiếu Lâm làm cứ điểm. Nhân đó, võ Thiếu lâm lừng danh khắp cả nhân gian Trung Hoa.

Nói về Đạt Ma Tổ Sư. Nếu muốn nói cho đủ là Bồ Đề Đạt Ma, có nghĩa là giác pháp. Ngài là người Nam Ấn Độ. Vào thời đại Trung Quốc Nam Bắc triều phân tranh, nhà Lương thế lực ở Hoa Nam, thủ đô tại Nam Kinh. Bấy giờ Bồ Đề Đạt Ma đi thuyền tới Quảng Châu. Quan Thứ sử Quảng Châu tên là Vĩnh Xương thấy nhà sư ngoại quốc, tướng kỳ dị liền tâu về thủ đô Kim Lăng, tức Nam Kinh ngày nay. Vua Lương Võ Đế vốn là người sùng kính Phật Pháp. Vua nghe có cao tăng từ Ấn Độ đến, nhà vua liền sai sứ giả Tề Chiêu đi thỉnh về kinh đô để cúng đường học đạo. Sau lần đàm đạo với vua Lương Võ Đế, Bồ Đề Đạt Ma thấy nhà vua không có đủ căn duyên với thiền cơ, nên từ tạ Nam Triều Lương Võ Đế, ra đi về phương Bắc đến chùa Thiếu Lâm Tự.

Khi qua sông, gặp lúc vắng đò sang ngang, mọi người đang đợi chờ ở bến đò, Đạt Ma bẻ cành trúc quăng xuống nước, nhẹ nhàng bước đứng lên trên, cành trúc phớt nhẹ lướt mặt sóng nước đưa Ngài qua bên kia bờ sông. Đến miền Hoa Bắc, Ngụy Hiếu Minh Đế lại càng không hiểu yếu nghĩa chân truyền của Thiền tông "giáo ngoại biệt truyền", nên Bồ Đề Đạt ma gấp rút lánh biệt vào núi Cao Tung.

Quan sát thời cơ, chưa tới, người đời căn duyên chưa thuần, nên Đạt ma thẳng tới chùa Thiếu Lâm, mặt đối vách, trầm lặng tĩnh tọa suốt 9 năm liền.

Thần Quang Huệ Khả nghe danh Ngài đến xin cầu đạo. Trải suốt bao tháng năm chịu đựng không màng nắng mưa sương tuyết, Thần Quang một lòng dũng cảm tinh chuyên với tâm nguyệnniềm tin kiên cố, sau cùng đã được Đạt Ma ấn tâm truyền Thiền, đời xưng là Nhị Tổ (xin xem bài Huệ Khả tầm đạo cũng trong sách này).

Tinh hoa Thiền của Bồ Đề Đạt Ma là dạy người triệt ngộ cội nguồn tâm linh, quay lại sống với chính mình, quên ngoại cảnh, tức nhập lưu vong sở, mói có cơ hướng thượng, chuyên tâm nhất ý quán sát bản lai diện mục bằng cách tự truy vấn mình: "Khi cha mẹ chưa sinh ta, bản lai diện mục của ta là gì? Ta là ai? Có nỗi ưu tư buồn khổ, vì không thấu rõ cội nguồn của chính mình, để phải lưu linh trôi nổi sanh tử luân hồi. Khi nào cảm nhận nỗi bâng khuâng buồn khổ sanh tử luân hồi bằng như nỗi buồn của con thơ bị cảnh cha mẹ cùng lúc qua đời, là khi dụng tâm hồi quang phản chiếu, liễu ngộ Phật tánh".

Thế thì con người chuyên hội tụ tâm tư cho việc quang tâm duy lý, thoát ly sanh tử như Bồ Đề Đạt Ma, mà lại phải bận tâm luyện tập võ nghệ ư?

Lại nữa xét cho cùng võ công Thiếu Lâm, bất luận nội công hay ngoại công; nhu công hay cương công; kinh công hay khí công; tay chân các thế; khí cụ vận dụng mỗi mỗi đều là sản phẩm của Trung Hoa. Ta đâu có thấy dấu tích khí thế võ công nào của Ấn Độ đâu? Nếu bảo là võ Thiếu lâm do Đạt Ma Tổ Sư truyền, sao không thấy sách vở nào lưu truyền? Không thấy người đời nhắc nhở đến nguồn gốc võ Ấn Độ? Thậm chí cho tới bây giờ cũng không thấy bóng hình võ nghệ của Ấn Độ đâu cả. Ngay chính cả trên xứ Ấn Độ?

Xem khắp sách vở chánh thống Thiền Tông, những sách đáng giá nhất như "Trung Quốc Thiền Tông Sử; Truyền Đăng Lục; Đạt Ma Truyện; Trung Quốc Lịch Đại Thiền Tông Tổ Sư v.v... chưa từng thấy ghi chép Đạt Ma Tổ Sư luyện công dạy võ. Mà chỉ có ghi Bồ Đề Đạt Ma 9 năm trầm tư diện bíchThiếu Lâm Tự. Ngài đã truyền Thiền cho Nhị Tổ Thần Quang Huệ Khả nơi ngôi chùa lịch sử này. Ngài là người đem ngọn đuốc Thiền đến Trung Hoa. Về sau này, Lục Tổ Huệ Năng là người làm rực sáng ngọn đuốc Thiền ở đất Khổng lão, chỉ thế thôi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27519)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26584)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29348)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20214)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20944)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29859)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22154)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24418)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29308)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32182)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21095)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28111)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29226)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20640)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28318)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23674)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33223)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31875)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39664)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19405)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26430)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24854)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21767)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29164)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20485)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21254)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35374)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24570)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31373)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26252)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20303)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22993)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30107)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21627)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20306)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20806)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28831)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34774)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22585)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21405)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29550)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35205)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28856)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37944)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21357)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27256)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24095)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20880)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34346)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22516)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25158)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant