Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

17. Phước Báo Nhiệm Mầu

21 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8580)
17. Phước Báo Nhiệm Mầu

PHÁP NGỮ LỤC
Thích Đức Niệm
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản Phật Lịch 2535 - 1991

17. PHƯỚC BÁO NHIỆM MẦU

Kính thưa quý vị,

Hôm nay tôi trình bày về phước báo. Người đời vì không hiểu không tin nhân quả phước báo, nên không xả bỏ nổi tâm tham lam bỏn sẻn, không cố gắng làm việc từ thiện bố thí cúng dường, nên phải chịu quả báo khổ sở bần cùng.

Thuở Đức Phật Thích Ca còn tại thế giáo hóa độ sanh ở thành Xá Vệ nước Ấn Độ, có vị vua tên là Ba Tư Nặc. Nhà vua vốn là một Phật tử thuần thành, tánh tình thuần hậu, nhân ái, lấy đức trị dân. Đối với các nước láng giềng, nhà vua lúc nào cũng giữa thái độ hòa mục hữu nghị. Nhà vua không thích thấy cảnh binh đao chém giết. Là một bậc minh quân đức độ như vậy, nên chẳng những dân chúng trong nước tin tưởng kính mến, mà các nước lân bang cũng đều kính phục.

Vua Ba Tư có ba vị công chúa. Công chúa thứ nhất tên là Kim Cương, thân hình xấu xí, từ bé đến lớn ở ẩn trong thâm cung, không mấy khi lộ diện, để tránh tiếng người đời bình phẩm cười chê. Công chúa thứ hai tên là Thiện Quang. Công chúa thứ ba tên là Bà Đà, vị công chúa này sớm đã sống xa Quốc vương và Hoàng Hậu.

Riêng về Thiện Quang công chúa không những sắc đẹp tuyệt trần, nhất là về đêm toàn thân sáng rỡ lại đẹp thùy mị nết na, thông minh lanh lẹ, lễ độ bặt thiệp dịu dàng. Đối với mọi người, công chúa Thiện Quang lúc nào cũng tỏ ra khiêm tốn nhã nhặn, thương người giúp kẻ hoạn nạn, nên được dân chúng ngưỡng mộ kính mến.

Một ngày nọ, nhân lúc rãnh việc triều đình, nhà vua cùng gia thuộc và cận thần đến vườn ngự uyển thưởng hoa ngắm cảnh. Thiện Quang công chúa theo hầu cạnh bên vua cha. Nhân lúc xem hoa thưởng nguyệt, nhà vua cao hứng hỏi công chúa văn thơ thi phú, lý sinh tồn của tinh tú vạn vật, mỗi mỗi công chúa đều đáp ứng thông suốt. Nhà vua đắc ý gật đầu về sự thông minh tuyệt vời của con mình. Rồi nhà vua nói với công chúa rằng: Này con, Phụ vương con làm vua một nước, trị dân thanh bình, trăm họ trên dưới đều kính mến. Con nương nhờ phước đức Phụ vương nên được trăm họ mến mộ. Điều này chỉ riêng con mới được phước thù thắng như vậy. 

Vừa nghe qua lời của vua cha nói, công chúa Thiện Quang từ tốn thưa:

- Tâu Phụ Vương, con đã nương nhờ thân thể của Phụ Vương và Mẫu Hậu đầu thai vào làm con gái Phụ Vương. Đương nhiên con phải kính hiếu để đền đáp công ơn sanh dưỡng rộng sâu như trời biển. Nhưng con được mọi người quý mến đâu phải nhờ Phụ Vương, mà đó là do phước báo chính nơi con đã tạo từ nhiều đời trước bằng sự tu nhân tích đức. Uy tín của chính mình tạo mới thật bền lâu, chứ còn nhờ cậy ảnh hưởng của cha mẹ hay người khác thì rất ít và đâu có chắc thật lâu bền. 

Vừa nghe, vua Ba Tư Nặc không hài lòng, nghĩ rằng: Thiện Quang, con gái mình từ lâu tánh tình vốn là hiền dịu hiếu thuận, không khi nào làm cho ai phật lòng. Nhưng tại sao hôm nay bỗng nhiên đổi tánh dám nói với ta những lời đại ngôn, tự cho mình là có phước báo mà không phải nhờ ta. Phải chăng phước vận nó đã hết. Nó sẽ chịu khổ? Nghĩ vậy rồi, sắc mặt nhà vua sa sầm, lòng nhà vua trầm buồn nghiêm khắc. Gọi Thiện Quang công chúa mà phán rằng:

- Này con! Con nói chính do con đời trước có tu hành mà nay được hưởng phước báo quả tốt. Vậy nay đây ta thử coi phước báo của con to lớn đến bực nào. Nhà vua phán xong, bảo công chúa lui về hậu cung.

Vua Ba Tư Nặc liền gọi một vị cận thần tâm phúc đến bảo nhỏ rằng: "Ta giao cho ngươi nội trong bảy ngày, ngươi bí mật ra ngoài thành kiếm cho ta một chàng trai đẹp khỏe, tuổi trẻ độ chừng Thiện Quang công chúa, tức cố vô thân, nghèo đói ăn xin, không nơi nương tựa, bí mật đem vào vườn sau cho Trẫm. Việc này tuyệt đối không được tiết lộ cho ai biết cả, ngoài ngươi và ta".

Ba ngày sau, vị cận thần này đã tìm dắt về một chàng trai áo quần cũ rách, làm nghề hành khất. Nhà vua được báo tin, liền đổi áo thường dân lặng lẽ một mình ra vườn sau, vừa thấy chàng ăn mày dáng mạo trẻ khỏe hiền từ, áo quần rách rưới, vua Ba Tư Nặc rất bằng lòng phán rằng:

- Nhà ngươi còn trẻ quá, chắc chưa có vợ con chi? Nếu chưa có mà nhà ngươi thật tình muốn vợ, thì ta có thể tặng cho nhà ngươi một thiếu nữ trẻ đẹp để làm vợ, và cho phép nhà ngươi tùy ý dắt đi ngay.

Trước sự bất ngờ, chàng ăn mày tưởng chừng như mình nằm chiêm bao không biết đây là thực hay mộng. Vì đã từ bé đến giờ sống trong hoàn cảnh đói khổ thiếu ăn thiếu mặc, chàng nào có bao giờ dám nghĩ đến chuyện vợ con. Vừa nghe nhà vua nói như vậy rồi, anh mừng không kể xiết, quên cả chính bản thânhoàn cảnh của mình. Anh vội gật đầu lia lịa thưa:

- Bẩm Ngài! Ngài có lòng nhơn từ thương xót kẻ tiểu nhân hạ tiện thì thật là quý hóa, tiểu nhân xin đời đời kiếp kiếp ghi ân không hết, nào dám chối từ.

Vua Ba Tư Nặc liền gọi Thiện Quang công chúa đến phán rằng:

- Này con! Con nói ngày nay con được đẹp đẽ phú quý, được mọi người kính mến là chính tự phước báo của con. Để xem phước báo của con đến độ nào, nên nay cha đồng ý gả con cho chàng trai khốn cùng này. Vậy con hãy gấp rút ra khỏi thành nội ngay bây giờ, không được mang theo một thứ gì, để đi sống với nó.

Tuy bất ngờ, nhưng công chúa Thiện Quang chẳng những không buồn hận vua cha, mà còn không tỏ ra mảy may lo âu cho tương lai số phận mình. Nàng tin tưởng mãnh liệt vào nhân quả tội phước. Nên nàng thản nhiên từ giã đời sống công chúa nhung lụa giàu sang, không chút tiếc nuối. Nàng đổi áo hoa lệ cao quý của đời sống công chúa để mặc lên mình chiếc áo vải thô sơ, thường dân, không đem theo bất cứ một thứ gì. Nàng thản nhiên lạy vua cha từ biệt, rồi cùng với chàng ăn mày bước ra cửa sau vườn ngự uyển, lặng lẽ rời hoàng cung.

Công chúa Thiện Quang lòng không chút nao núng lo âu, thản nhiên cất bước. Đi một quãng đường xa, gối mỏi, chân cảm thấy đau, nàng hỏi chàng ăn mày:

- Thưa chàng, chàng ở nơi nào. Cách đây còn bao xa. Có nhà cửa gì để nương thân không?

Chàng ăn mày lòng áy náy ấp úng đáp:

- Không dấu diếm gì cô. Khi tôi vừa mới sinh ra, nhà tôi còn giàu có lắm, gia sản rất nhiều. Nhưng sau khi cha tôi trả áo từ quan, buồn lo thế sự không làm việc gì. Sau đó không mấy năm, gia đình sa sút hẳn. Cha tôi già lại buồn vì thân phận gia cảnh, nên sanh bệnh rồi chết sớm. Mẹ tôi cũng bị ảnh hưởng nỗi buồn của cha tôi rồi chết theo luôn. Lúc đó cha mẹ tôi bỏ lại cõi đời đứa con hãy còn thơ ấu là tôi. Tôi không còn cha mẹ nương náu hướng dẫn. Dần dần nhà cửa đổ nát với thời gian. Vườn nhà tuy rộng, nhưng không người chăm sóc, nên hoang phế. Ngôi nhà hoang phế của tôi cách đây không xa lắm cô à.

Thiện Quang công chúa nghe xong, lòng vui mừng bảo chàng ta rằng: Như vậy tốt lắm. Chúng ta trước hết nên đi đến nơi đó thăm nhà để nghỉ ngơi, rồi sẽ tính sau.

Không mấy chốc, công chúa Thiện Quang theo sau chàng ăn xin, vừa bước vào cổng lớn, một cảnh tượng nhà cửa phòng ốc cũ kỹ xiêu vẹo đổ nát, vườn đầy cỏ dại hoang tàn. Cả hai cùng đi xem khắp vườn một lượt. Khi đến một góc vườn, công chúa Thiện Quang thấy có loại cỏ hương thơm ngạt ngào. Công chúa linh tính nghĩ rằng, thứ cỏ này chắc là cỏ thuốc có thể trị bệnh được. Nhân đó, một nguồn hy vọng vui vui nảy sanh trong lòng Thiện Quang. Đến một góc vườn khác, thấy bày ra một đống ngói đá gạch vụn cao như gò núi, không mọc một cây cỏ nào, công chúa lấy làm lạ, trèo lên ngồi nghỉ chân, nhìn quanh ngắm cảnh nguy nga hoa lệ của quan phủ ngày trước, nay đã hoang tàn.

Công chúa ngồi lấy tay bươi gạch đá vụn để khuây khỏa theo dòng tâm tư nghĩ vể thân phận mình. Bỗng phát hiện một tấm đá hoa cương bằng phẳng tuyệt đẹp. Thiện Quang kinh ngạc, mừng gọi nhỏ chàng ăn mày giúp sức với nàng để đỡ lấy tấm đá tinh mỹ kia lên dùng làm ghế ngồi. Thật lạ thay, vừa lật tấm đá hoa lên, nào ngờ tấm đá hoa cương kia chính là cái nắp đậy của một hàm vàng châu báu hiển hiện sáng chói. 

Chàng ăn mày chưa từng thấy châu báu bao giờ. Nên vừa thấy, chàng ta kinh ngạc vui mừng vỗ tay nhảy nhót reo hò cười to khoái chí!

Để tránh người đời dòm ngó, công chúa Thiện Quang đưa tay ra hiệu khuyên chàng trầm tĩnh ngồi xuống để nhặt lấy của quý. Thiện Quang cùng chàng ăn mày quyết định ở lại khu vườn hoang phế. Sau khi bất ngờ được hầm vàng, Thiện Quang công chúa đã gọi nhiều tay thợ giỏi đến, y theo ý tưởng của nàng phác học xây cất nhà cửa lâu đài. Chẳng mấy thời gian, những tòa lâu đài nguy nga tráng lệ hoàn thành. Mọi người xa gần đều tán thưởng khen ngợi. Tiếng khen đồn khắp, không mấy chốc đồn vào cả hoàng cung, đến tai vua.

Vua Ba Tư Nặc khi nghe tin đồn rất đổi ngạc nhiên, bán tín bán nghi, nghĩ rằng công chúa ra đi không đem theo một vật gì, kể cả nữ trang áo quần quí giá đều bỏ lại. Chàng ăn mày thì đói khổ rách rưới. Đúng ra thì cuộc sống của chúng nó phải khốn khổ lắm chứ. Sao mới đây lại được giàu sang, xây cất lâu đài huy hoàng không thua gì cung điện của ta? Lạ thật!

Nhà vua rất đổi kinh ngạc, nghĩ không ra. Thật công chúa Thiện Quang con ta có được phước báo lớn vậy sao? Mà phước báo từ đâu đến? Không tự giải đáp nổi về cội nguồn của phước báo, nên vua Ba Tư Nặc phải đến cầu thỉnh Đức Phật giảng giải về nhân duyên phước báo đời trước của công chúa. Đức Phậtxót thương tâm địa vô minh ám chướng của vua Ba Tư Nặc, Ngài khai thị:

- "Này Đại Vương, thuở đời quá khứ có một vị Quốc Vương tên là Bàn Đầu. Vương hậu là một người rất mực sùng kính Tam Bảo, thích làm việc từ thiện bố thí.

Lúc bấy giờ Đức Phật Tỳ Bà Thi ra đời thuyết pháp hóa độ chúng sanh. Sau khi Phật thị hiện tịch diệt Niết Bàn, Vương hậu nhớ tưởng đến Đức Phật, cho mời thợ giỏi khéo nhất trong nước vào cung để khắc tượng Phật tôn thờ cho đỡ bớt nhớ. Đồng thời để tỏ lòng tôn kính Đức Phật Tỳ Bà Thi, Vương hậu đêm đêm kính lễ tượng Đức Phật. Do lòng tin sùng tôn kính Đức Phật Tỳ Bà Thi Như Lai của Vương hậu với tâm nguyện đem tất cả châu báu dâng cúng Phật, bố thí người nghèo, sau đó Vương hậu còn phát nguyện rằng, trong tương lai đời đời được sanh vào nhà giàu, tin kính Tam Bảo, tiếp tục làm việc phước thiện, thân đẹp hương thơm.

Rồi đến thời Đức Phật Ca Diếp ra đời, giáo hóa chúng sanh, Vương hậu cũng sanh vào trong gia đình giàu có. Đối với việc bố thí từ thiện, bà lại càng tinh tấn phát tâm hơn. Nhứt là việc cúng dường phát tâm, không một chút lẩn tiếc. Có một lần nọ, Bà cung thỉnh PhậtChư Tăng đến nhà để cúng dường thọ trai, nhưng chồng bà keo kiết lẩn tiếc cho rằng bố thí cúng dườngviệc làm uổng của tốn tiền vô ích. Chỉ riêng một mình bà hiểu tin công đức bố thí được phước báo vô lượng thôi.

Nếu các đời trước không làm việc bố thí, thì đời nay không thể nào được phước báo như vậy. Trên đời này biết bao kẻ bần khốn? Bởi do những đời trước có tâm lượng hẹp hòi tham lam bỏn xẻn. Nên biết rằng, bố thí không những chỉ đem vật bố thí, mà thấy người khác làm hạnh bố thí, mình cũng nên khởi tâm vui mừng khen thưởng. Được như vậy, thì cũng sẽ tiêu trừ ác duyên tội chướng, tăng trưởng nhiều phước báo.

Hoàng hậu không những tinh tấn vui thích làm việc bố thí, mà còn hết lòng tìm cách khuyên chồng. Sau đó người chồng cũng tỉnh ngộ sửa sai, phát tâm cùng bà đồng làm việc thiện, bố thí, cúng dường, hộ đạo, tạo nhiều chùa viện tăng xá.

Phu nhân kia chính là tiền thân Thiện Quang. Người chồng keo kiết chính là chàng thanh niên khốn khổ ăn mày ngày nay vậy. Chỉ vì một niệm tham sân cua chàng ngày trước mà ngày nay phải chịu thống khổ suốt hơn nữa cuộc đời làm kiếp ăn mày".

Phật nói tiếp: - Tâu Đại vương, thiện ác nhân quả báo ứng như bóng theo hình, quyết không sai sót. Một lần trồng, mười lần ăn. Đó là chân lý. Một hạt ổi được gieo và săn sóc kỹ thì nhất định sẽ hưởng được trăm ngàn trái ổi. Công đức bố thí cũng vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23330)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27520)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26585)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29353)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20216)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20945)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29863)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22160)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24422)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29310)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21102)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28112)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29229)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20643)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28321)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23675)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33230)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31875)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39667)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19405)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26432)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24855)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21772)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29165)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20486)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21258)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35374)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24575)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31374)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26254)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20308)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22995)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30109)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21637)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20310)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20809)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28834)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34778)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22589)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21408)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29554)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35208)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28857)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37944)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21359)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27257)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24100)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20883)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34349)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22517)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25162)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant