Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Kinh điển Phật Giáo

09 Tháng Mười 201100:00(Xem: 11870)
01. Kinh điển Phật Giáo

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 2: GIÁO LÝ CĂN BẢN

Kinh điển Phật Giáo

Những bài pháp đức Phật thuyết trải qua 45 năm hoằng hóa của ngài, đã không được ghi lại bằng văn tự từ lúc Phật đương thời cho đến mấy thế kỷ sau khi ngài nhập diệt, không phải lúc đó Ấn độ chưa có chữ viết, thật ra kinh Vệ Ðà của Bà La Môn đã được ghi chép bằng chữ Phạn từ trước thời đức Phật.

Những đại đệ tử của Phật như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên trước kia ở phái San Xa Dạ thuộc Lục Sư ngoại đạo, mỗi người có đến 100 đệ tử, cũng đại đệ tử như Ðại Ca Diếp vốn thuộc dòng dõi Bà La Môn, còn những vị vương tử khác thuộc dòng dõi Sát Ðế Lợi như A Nan, A Na Luật, Nan Ðà, Ma Ha Nam . . . dĩ nhiên những người đó làu thông chữ nghĩa Sanscrit, nhưng kinh điển đã không được ghi chép vì theo Tạng Luật của nhiều bộ phái còn ghi lại sự kiện sau đây: "Bấy giờ có hai anh em Bà La Môn xin xuất gia theo Phật. Họ yêu cầu Ngài cho phép họ tụng, đọc những lời Ngài dạy theo kiểu tụng đọc kinh điển Vệ Ðà mà họ đã quen đọc, họ cũng yêu cầu sử dụng tiếng Sanscrit và sắp xếp câu văn thế nào cho hoa mỹ như cách hành văn của Sanscrit trong kinh điển ấy". Về lời yêu cầu nầy, Phật dạy rằng trong đạo Ngài không cần văn chương hoa mỹ, chỉ cần nghĩa lý rõ ràng, lập luận chặt chẻ. Lời văn giọng nói cần phải đơn giản, thế nào cho người nghe hiểu được mình muốn nói gì. Ðó là vấn đề chính yếu để giải đáp cho câu hỏi vì sao kinh điển không được ghi chép từ thời đức Phật còn hiện tiền.

Trong kiết tập lần thứ nhất, ngài Ðại Ca Diếp đưa ra ý kiến: "Nếu chúng ta xem học pháp là những giới nhỏ nhặt, có thể loại bỏ thì các Tỳ Kheo khác sẽ bảo: Bốn giới Ba La Ðề Ðề Xá Ni cũng là những giới nhỏ nhặt có thể loại bỏ. Nếu chúng ta bảo bốn giới Ba La Ðề Ðề Xá Ni là những giới nhỏ nhặt, thì các Tỳ Kheo khác sẽ bảo: Các giới Ba Dật Ðề cũng là những giớ nhỏ nhặt... Giờ đây chung ta không thể khẳng định, giới nào là giới nhỏ nhặt mà loại bỏ một cách tùy tiện thì bọn ngoại đạo sẽ bảo: "Pháp của sa môn Thích tử giống như mây khói, khi thầy còn sống thì những pháp do thầy chế định các đệ tử tuân thủ một cách nghiêm túc, nhưng sau khi thầy nhập niết bàn, họ không chịu thực hành nữa" Do vậy, tôi khẳng định lại : "Những gì không do Phật chế thì không được tự ý chế định, và những gì do Phật chế định thì không được vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn học tập những gì mà Phật đã truyền dạy". Ý kiến này đã được đại hội quyết nghị chấp thuận, do đó cho chúng ta thấy rằng, tăng đoàn quyết bảo tồnhành trì đúng y theo những lời Phật dạy, Thượng Tọa bộ đã tiếp nối truyền thống nầy nên họ được mệnh danh là bảo thủ, chính truyền thống bảo thủ nầy mà trải qua nhiều thế kỷ, kinh điển vẫn khẩu truyền chớ không được ghi chép.

Tương truyền rằng sau khi mãn Hạ trong lần kiết tập thứ nhất đó, ngài Ưu Bà Ly đem quyển Luật của ngài đã kiết tập ghi 1 điểm, cứ thế sau mỗi Hạ ghi 1 điểm, quyển Luật nầy có tên là Luật Thiện Kiến, sau ngài truyền cho đệ tử là Ðà Ðã Tật, Ðà Ðã Tật truyền cho ngài Tu Câu và cứ thế lưu truyền, đến ngài Bạt Ðà La mang nguyên bổn Luật nầy sang Trung Hoa vào đời Tề, năm Vĩnh Bình Thứ Bảy, dịch ra Hán Văn tại chùa Trúc Lâm ở Quảng Châu, mãn Hạ năm ấy đếm số ghi cuối cùng được 976 điểm, vì do chư thánh Tăng đã điểm vào quyển nầy, nên nó còn có tên là "Chúng Thánh Ðiểm Ký". Phật Lịch được định theo điểm ký nầy.

Nhìn lại lịch sử Phật giáo, chúng ta biết rằng kiết tập lần thứ hai khoảng 100 năm sau Phật nhập diệt, hay ở thế kỷ thứ V trước Công nguyên, lần kiết tập nầy do vấn đề giới luật, Phật giáo lần đầu tiên bị phân phái thành Thượng Tọa bộ và Ðại Chúng bộ. Ðến thời đại vua A Dục, khoảng 236 năm sau khi Phật nhập Niết Bàn, tức năm 250 trước CN nhà vua hộ trì tổ chức kiết tập lần nầy để chỉnh đốn lại hàng ngủ Tăng già, có thuyết cho là do tân thuyết của Ðại Thiên. Lần kiết tập này xuất hiện bộ "Thuyết sự", sau nầy người ta cho rằng từ đó Phật Giáo có đủ Tam Tạng Kinh Ðiển. Lần kiết tập thứ tư dưới triều đại Ca Nhị Sắc Ca (128-151), khoảng 700 năm sau khi Phật nhập niết bàn, khoảng năm 140 CN, lần kiết tập nầy, hội nghị đã sáng tác bộ "Luận Nghị" (Upadesa), để giải thích tạng Kinh, bộ "Tỳ Bà Sa" (Vibhasa) để giải thích tạng Luật và bộ "A Tỳ Ðạt Ma" (Abhidarma) để giải thích tạng Luận. Như vậy cả bốn lần kiết tập, đều cho chúng ta thấy, không lần nào có tổ chức ghi chép kinh điển.

Chúng ta lại biết rằng, sau khi Phật nhập niết bàn 236 năm, dưới triều đại vua A Dục, ngài muốn truyền bá Phật giáo nên phái một đoàn truyền giáo sang Tích Lan, do Trưởng Lão Minhada (là vương tử, con vua A Dục) hướng dẫn, đoàn truyền giáo này đã truyền khẩu Kinh và Luật tại vương quốc Tích Lan bằng tiếng Ma Kiệt Ðà, để giải thích kinh họ dùng ngôn ngữ và chữ Tích Lan để ghi chép. Ðến triều vua Vô Úy Vương (Vatthagàmani-Abhaya thế kỷ I trước Công Nguyên), một vị vua rất hâm mộ và nhiệt tâm hộ trì Phật giáo, đã tạo dựng một ngôi chùa nguy nga đồ sộ tại núi Vô Úy tên là Vô Úy Tự. Thời kỳ này vào những năm 35-32 TCN Phật Giáo Tích Lan họp chư tăng tại chùa Alu gần thị trấn Matale, kiết tập toàn bộ Tam Tạng, kinh điển bắt đầu ghi chép bằng tiếng Pali theo ngôn ngữ Ma Kiệt Ðà. Về nguồn gốc tiếng Pali, các nhà khảo cứu cho rằng nó phát xuất từ nơi nào đó thuộc vương quốc rộng lớn Ma Kiệt Ðà, rồi lan rộng ra các nơi đến tận Tích Lan.

Về sau, đến thế kỷ thứ V, có ngài Phật Âm (Buddhaghoso), người Trung Ấn, đến Tích Lan nghiên cứu giáo lý của Ðại Tự phái (Phật giáo Tích Lan bắt nguồn từ Ðại Tinh Xá phát triển ra, nên gọi là Ðại Tự phái, sau Tăng chúngVô Úy Tự bất đồng ý kiến về giới luật, tách khỏi Ðại Tự phái, thành lập Vô Úy Sơn Tự phái, thuộc pháp hỷ bộ, đầu thế kỷ thứ III, tại chùa Kỳ Ðà Lâm, phát sinh ra một phái nửa gọi là Kỳ Ðà Lâm Tự phái.), ngài Phật Âm đã dùng tiếng Pali để chú thích hầu hết các Kinh, Luật và Luận, phần nào chưa xong, sau nầy có ngài Hộ Pháp (Dhammapàla) hoàn thành, chính ngài Phật Âm (Buddhaghoso) sáng tác ra bộ Thanh Tịnh Ðạo Luận (Visuddhimagga).

Như vậy Phật giáo Tích Lan dùng kinh điển Pali gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy hay Phật giáo Nam Tông. Còn Phật Giáo Ðại Thừa hay Bắc Tông dùng kinh điển chữ Sanscrit. Chúng ta biết chữ Sanscrit đã có từ trước thời đức Phật, nhưng kinh điển Phật giáo được ghi chép bằng Sanscrit không rõ từ lúc nào nhưng chắc là khoảng thời thời kỳ kiết tập kinh điển lần thứ tư, những nhà nghiên cứu Phật giáo cho rằng kinh điển ghi bằng chữ Sanscrit cũng như Pali, có thể đã dựa theo nguyên bản ngôn ngữ Ma Kiệt Ðà, hoặc khi ghi kinh điển Sanscrit có tham khảo bản tiếng Pali, cho nên nội dung bộ A Hàm (Agama) của Bắc Tông giống như Ngũ Bộ Kinh (Nikaya) của Nam Tông.

Chúng ta có bảng liệt kê đại cương kinh điển Nam Tông như sau:

I.- Luật Tạng:

Gồm có giới luật, nghi lễ, hành xử cho Nam, Nữ tu sĩ, chia làm 5 bộ:

  1. Ba La Di
  2. Ba Dật Ðề
  3. Ðại Phẩm
  4. Tiểu Phẩm
  5. Toát yếu

II.- Kinh Tạng:

Ghi những lời của Phật hay đệ tử Phật giảng dạy, được chia ra làm 5 bộ gọi là Ngũ Bộ Kinh:

  1. Trường Bộ
  2. Trung Bộ
  3. Tương Ưng Bộ
  4. Tăng Chi Bộ
  5. Tiểu Bộ

Tiểu Bộ không phải là bộ kinh nhỏ hay ngắn, mà chính ra nó là tập họp 15 bộ sách nhỏ :

a- Tiểu Tụng
b- Pháp Cú
c- Phật Tự Thuyết
d- Như Thị Ngữ
e- Kinh Tập
f- Thiên Cung Sự
g- Ngạ Quỹ Sự
h- Trưởng Lão Tăng Kệ
i- Bổn Sanh
j- Nghĩa Thích
k- Vô Ngại Giải Ðạo
l- Thí dụ
m- Phật sử
n- Sở hành tạng

III.- Luận Tạng, còn gọi là Thắng Pháp Tạng hay Vi Diệu Pháp

Nội dung luận giải những lời Phật dạy, hệ thống hóa những lời dạy ấy thành cơ sở triết học . . . gồm có 7 quyển:

  1. Pháp Tụ
  2. Phân Biệt
  3. Giới Thuyết
  4. Nhân Thi Thiết
  5. Biện Giải
  6. Song Luận
  7. Nhân duyên Thuyết

Ngoài ra còn một số tác phẩm quan trọng khác, cũng được xem như thánh điển Nam Tông, được lưu truyền cho đến nay như:

  • Ðảo sử
  • Ðại Sử
  • Tiểu Sử
  • Mi Lan Ðà Vấn Ðạo (Kinh Na Tiên)
  • Thanh Tịnh Ðạo Luận
  • Thắng Pháp Tập Yếu Luận

Kinh điển Bắc Tông, nguyên bản chữ Sanscrit ngày nay phần nhiều không còn, hầu hết là những bản Hán dịch của Thánh Tăng Ấn Ðộ hay 675 bộ kinh điển Trần Huyền Trang mang từ Ấn Ðộ về dịch sang chữ Hán. Chia ra như sau:

I.- Tạng Luật:

  1. Thập Tụng Luật
  2. Tứ Phận Luật
  3. Ma Ha Tăng Kỳ Luật
  4. Ngũ Phận Luật
  5. Tỳ Nại Da

II.- Tạng Kinh:

  1. Trường A Hàm
  2. Trung A Hàm
  3. Tạp A Hàm
  4. Tăng Nhứt A Hàm

III.- Tạng A Tỳ Ðàm:

  1. Phát Trí Luận của Ca Ða Diễn Ni Tử, được xem như là cái thân, có 6 chân là:
  2. Tập Dị Môn Túc Luận (tương truyền của Xá Lợi Phất sáng tác)
  3. Pháp Uẩn Túc Luận (tương truyền của Mục Kiền Liên sáng tác)
  4. Thi Thiết Túc Luận của Ca Chiên Diên
  5. Thức Thân Luận của Ðề Bà Thiết Ma
  6. Phẩm Loại Túc Luận của Thế Hữu
  7. Giới Thân Túc Luận cũng của Thế Hữu

Tạng A Tỳ Ðàm diễn đạt rất trung thực với những lời Phật dạy trong các kinh.

IV.- Tạng Khuất Già Ðà (Ðôi khi xếp chung với Tạng Kinh gọi là Ngũ A Hàm):

  1. Khế Kinh
  2. Ứng tụng
  3. Cô khởi
  4. Nhân duyên
  5. Bản sự
  6. Bản Sanh
  7. Vị Tăng Hữu
  8. Thí dụ
  9. Luận Nghị
  10. Tự Thuyết
  11. Phương quảng hay Tỳ Phật Lược
  12. Thọ Ký

Phần trên là những kinh điển Nam TôngBắc Tông có gần giống nhau, ngoài ra Bắc TôngPhật Giáo phát triển nên có thêm những bộ kinh khác, loại không rõ phương danh Thánh tăng có:

V.- Bát Nhã Bộ: (Riêng bộ nầy nguyên bản Sancrit còn khá đầy đủ)

  1. Ðại Bát Nhã Sơ Phận
  2. Ðại Phẩm Bát Nhã
  3. Tiểu Phẩm Bát Nhã
  4. Văn Thù Bát Nhã
  5. Thắng Thiên Vương Bát Nhã
  6. Lý Thú Bát Nhã
  7. Kim Cương Bát Nhã
  8. Bát Nhã Tâm Kinh

VI.- Hoa Nghiêm Bộ:

  1. Thập Ðịa Phẩm
  2. Hành Nguyện Phẩm tức Tứ Thập Hoa Nghiêm
  3. Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tán

VII.- Phương Quảng Bộ:

  1. Pháp Hoa Kinh
  2. A Di Ðà Kinh
  3. Bi Hoa Kinh
  4. Kim Quang Minh Kinh
  5. Nguyệt Ðăng Tam Muội Kinh
  6. Soạn Tập Bách Duyên Kinh
  7. Phật Bản Hạnh Tập Kinh Dị Bản
  8. Duy Ma Kinh

Các kinh đã được sáng tác trong thời đại Long Thọ, khoảng thế kỷ thứ III:

  1. Thắng Man Kinh
  2. Ðại Niết Bàn Kinh
  3. Giải Thâm Mật Kinh
  4. Kinh Lăng Già

VIII.- Bảo Tích Bộ:

  1. Hộ Quốc Tôn Giả Sở Vấn Kinh
  2. Ðại Ca Diếp Hội.
  3. Vô Lượng Thọ Hội tức Vô Lượng Thọ Kinh

IX.- Bí Mật Bộ:

  1. Vô Lượng Thọ Quyết Ðịnh Quang Minh Vương Ðà La Ni
  2. Tán Dương Thánh Ðức Ða La Bồ Tát Nhất Bách Bát Danh Kinh
  3. Kim Cương Thủ Bồ Tát Hàng Phục Nhất Thiết Bộ Ða Ðại Giáo Vương Kinh
  4. Vô Năng Thắng Phan Vương Như Lai Trang Nghiêm Ðà La Ni Kinh
  5. Thánh Cứu Ðộ Phật Mẫu Nhị Thật Nhất Chủng Lễ Tán Kinh
  6. Thánh Diệu Mẫu Ðà La Ni Kinh
  7. Ðại Bi Không Trí Kim Cương Ðại Giáo Vương Nghi Quỹ Kinh
  8. Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh
  9. Phật Mẫu Ðại Khổng Tước Vương Kinh
  10. Ðại Văn Thỉnh Vũ Kinh
  11. Ðại Tùy Cầu Ðà La Ni Kinh
  12. Ðại Bạch Tản Cái Ðà La Ni Kinh
  13. Thủ Hộ Ðại Thiên Quốc Ðộ Kinh
  14. Ðại Hàn Lâm Thánh Nan Noa Ðà La Ni Kinh
  15. Ðại Hộ Minh Ðà La Ni Kinh
  16. Ma Lị Chi Thiên Ðà La Ni Kinh
  17. Văn Thù Sở Thuyết Tối Thắng Danh Nghĩa Kinh
  18. Bát Lan Sa Phược La Ðà La Ni Kinh
  19. Nhất Thiết Như Lai Tam Nghiệp Tối Thượng Bí Mật Ðại Giáo Vương Kinh
  20. Nhất Thiết Như Lai Ô Cầm Nhị Sa Tối Thắng Tổng Trì Kinh
  21. Hoại Tướng Kim Cương Ðà La Ni Kinh
  22. Trì Thế Ðà La Ni Kinh
  23. Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh

X.- Sáng tác của các Thánh Tăng khác:

1. Na Tiên (xuất hiện cuối thế kỷ thứ II trước công nguyên):

  • Na Tiên Tỳ Kheo Kinh

2.- Thế Hữu, ở đầu thế kỷ thứ II, người nước Gandhàra, thượng thủ kỳ kiết tập kinh điển lần thứ IV.

  • Di Bộ Tôn Luận
  • Tôn Bà Tu Mật Bồ Tát Sở Tập Luận

3.- Mã Minh, ngài sanh ở vùng sông Hằng, khoảng hậu bán thế kỷ thứ II.

  • Phật Sở Hạnh Tán
  • Ðại Trang Nghiêm Luận Kinh
  • Thập Bất Thiện Nghiệp Ðạo Kinh
  • Lục Thú Luân Hồi Kinh
  • Sự Sư Pháp Ngũ Thập Tụng
  • Ni Kiền Tử Vấn Vô Ngã Nghĩa Kinh
  • Ðại Tôn Ðịa Huyền Văn Bản Luận
  • Ðại Thừa Khởi Tín Luận

4.- Long Thọ, ngài sanh khoảng đầu thế kỷ thứ III, ngườ Nam Ấn, dòng dõi Bà La Môn.

  • Trung Quán Luận
  • Thập Nhị Môn Luận
  • Ðại Trí Ðộ Luận
  • Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận
  • Thập Bát Không Luận
  • Ðại Thừa Phá Hữu Luận
  • Bồ Ðề Tư Lương Luận
  • Bồ Ðề Tâm Ly Tướng Luận
  • Hối Tránh Luận
  • Phương Tiện Tâm Luận
  • Khuyến Phát Chư Vương Yếu Kệ
  • Tán Pháp Giới Tụng
  • Quảng Ðại Phát Nguyện Tụng

5.- Ðề Bà cũng gọi là Thánh Thiên, sinh cuối thế kỷ thứ III, người Nam Ấn.

  • Bách Luận
  • Bách Tự Luận
  • Quảng Bách Luận

6.- La Hầu La Bạt Ðà La (Ràhula-bhadra), người Trung Ấn sinh khoảng cuối thế kỷ thứ III, ngài truyền bá giáo lý Ðại Thừa vùng Trung Ấn.

  • (Sách của ngài chú thích Trung Quán Luận của Long Thọ nhưng đã thất truyền)

7.- Trước tác của Ngài Di Lặc (do Vô Trước ghi chép lại):

  • Du Già Sư Ðịa Luận
  • Ðại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận
  • Thập Ðịa Kinh Luận
  • Trung Biên Phân Biệt Luận

8.- Vô Trước, sinh ở cuối thế kỷ thứ IV thuộc nước Gandhàra, Bắc Ấn, dòng dõi Bà La Môn. Có hai em là Thế Thân và Lân Trì Tử, cả ba cùng xuất gia đầu Phật.

- Hoa Nghiêm Kinh

  • Hiển Dương Thánh Giáo Luận
  • Nhiếp Ðại Thừa Luận
  • Ðại Thừa A Tỳ Ðạt Ma Tạp Luận
  • Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Luận
  • Thuận Trung Luận

9.- Thế Thân, sinh sau Vô Trước chừng 20 năm vào cuối thế kỷ thứ IV, xuất gia theo hệ thống Hữu Bộ (Thượng Tọa Bộ), sau nghe lời khuyên của Vô trước, chuyển sang Ðại Chúng Bộ. Tương truyền ngài là luận chủ của một ngàn bộ luận, đã được dịch sang Hán văn :

  • A Tỳ Ðạt Ma Câu Xá Luận (Hữu bộ)
  • A Tỳ Ðạt Ma Câu Xá Bản Tụng (Hữu bộ)
  • Duy Thức Tam Thập Luận Tụng
  • Duy Thức Nhị Thập Luận
  • Ðại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận
  • Ðại Thừa Ngũ Uẩn Luận
  • Phật Tính Luận
  • Nhiếp Ðại Thừa Luận Thích
  • Thập Ðịa Kinh Luận
  • Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Ðề Xá
  • Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Ðề Xá
  • Chuyển Pháp Luân Kinh Ưu Ba Ðề Xá
  • Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Ða Kinh Luận
  • Lục Môn Giáo Thụ Tập Ðịnh Luận

10.- Trần Na, sinh vào cuối thế kỷ thứ V, ở nước Dràvida, Nam Ấn, lúc đầu ngài học giáo lý Thượng Tọa Bộ, sau chuyển sang Ðại Chúng Bộ nên thông hiểu giáo nghĩa cả hai, ngài nhận thấy Nhân Minh học lúc ấy còn phức tạp, nên đã hoàn chỉnh thành hệ thống mới gọi là "Tân Nhân Minh", sáng tác của Ngài gồm có :

  • Nhân Minh Chỉnh Lý Môn Luận Bản
  • Quán Sở Duyên Duyên Luận
  • Vô Tướng Tư Trần Luận
  • Thủ Nhân Giả Thiết Luận
  • Quán Tổng Tướng Luận Tụng
  • Chưởng Trung Luận

11.- Thanh Biện, sanh khoảng tiền bán thế kỷ thứ VI, người Trung Ấn, lúc đầu theo học phái Số Luận, sau theo Phật giáo, chịu ảnh hưởng Long Thọ và Dề Bà, sáng tác của ngài có:

  • Ðại Thừa Chưởng Trân Luận
  • Bát Nhã Ðăng Luận Thích

12.- Hộ Pháp, sinh khoảng thế kỷ thứ VII, người nước Dràvida, ông mất lúc 32 tuổi, thầy của Giới Hiền, trước tác ngài gồm có:

  • Thành Duy Thức Luận
  • Thành Duy Thức Bảo Sinh Luận
  • Quán Sở Duyên Duyên Luận Thích
  • Ðại Thừa Quảng Bách Luận

Nói đến Kinh điển Nam Tông, người ta nghĩ ngay đến kinh điển Pali, chẳng những kinh điển Pali lưu truyền trong các nước Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Campuchea mà đã lan truyền sang các nước Tây phương trên 100 năm qua, đó là nhờ có Hiệp Hội Thánh Ðiển Pali (Pàli Text Society) do Tiến sĩ T.W. Rhys Davids (1843-1922) người Anh đã khởi xướng thành lập Hiệp Hội nầy từ năm 1881, trụ sở đặt tại Luân Ðôn, đến nay Hiệp Hội vẫn còn hoạt động và đã dịch trên 100 quyển kinh điển Pali ra Anh ngữ.

Còn nói đến kinh điển Bắc Tông, các kinh điển Sanscrit đã được nhiều dịch giả như Cưu Ma La Thập, Huyền Trang... dịch sang Hán văn hầu hết các kinh điển nêu phần trên, từ trước đến nay đã có nhiều bộ sưu tập như sau:

I.- Bộ 1 (chép tay) sưu tập từ thời Lương Võ Ðế, các kinh điển dịch ra Hán văn có tại Trung quốc từ năm 67 đến năm 517.

II.- Bộ 2 (chép tay) sưu tập dưới thời vua Hiếu Võ nhà Nguyên Ngụy, gồm các kinh điển đến năm 533-534.

III.- Bộ 3 (chép tay) sưu tập tới năm 594, dưới thời Tùy Văn Ðế.

IV.- Bộ 4 (chép tay) sưu tập đến năm 602, dưới thời Tùy Văn Ðế, gồm 2109 bộ, thành 5058 quyển.

V.- Bộ 5 (chép tay) sưu tập đến năm 616 dưới thời Tùy Văn Ðế.

VI.- Năm 644, dưới thời nhà Ðường, lập xong thư tịch của 2847 bộ, thành 8476 quyển kinh đã phiên dịch xong, trong số có 650 bộ do Ngài Huyền Trang thỉnh từ Ấn Ðộ về.

VII.- Bộ 6 (chép tay) hoàn tất năm 695, dưới thời Võ Hậu gồm 3616 bộ, thành 8641 quyển.

VIII.- Bộ 7 (chép tay) hoàn tất năm 730, dưới thời Ðường Huyền Tôn.

IX.- Bộ 8 (in bằng gỗ) hoàn tất năm 972, dưới thời Tống Thái Tổ. Phải khắc 130 ngàn bản gỗ mới in xong bộ Tam Tạng nầy, năm 995, Phật giáo Trung Hoa có cho Cao Ly (Ðại Hàn) thỉnh một bộ Tam Tạng của bản in nầy. Phật giáo Cao Ly khắc và in lại thành bộ Cao Ly bổn.

X.- Bộ 9 (in) năm 1285-1287 dưới thời Thế Tôn nhà Nguyên.

XI.- Năm 1306, hoàn tất thư tịch kinh điển (đã soạn từ đời Tống cho đến đời Nguyên mới xong).

XII.- Bộ 10 (in) năm 1368-1398, dưới thời Minh Thái Tổ, bộ Tam Tạng nầy được gọi là Ðại Minh Nam Kinh Ðại Tạng Kinh, vì đã được in tại Nam kinh (Nankin)

XIII.- Bộ 11 (in) năm 1403-1424, dưới thời Minh Thành Tổ. Bộ Tam Tạng này được gọi là Ðại Minh Bắc Kinh Ðại Tạng Kinh, vì được in tại Bắc kinh (Pékin).

XIV.- Ngài Pháp sư Mật Tạng hổn hợp hai bộ trên thành một và lập thư tịch.

XV.- Bộ 12 (in) năm 1735-1737 dưới thời vua Thế Tôn và Cao Tôn đời nhà Thanh.

XVI.- Bộ 13 (in) năm 1911, Tinh Xá Tần Già ở Thượng Hải in lại bộ Súc Loát Tạng Kinh của Nhật Bản gọi là Tần Già Bản.

XVII.- Bộ 14 (in) Thương vụ ấn quán in lại Tục Tạng Kinh của Nhật Bản.

XVIII.- Bộ 15 (in) khoảng từ năm 1931-1936, có in lại Tống bản Tích Sa tạng kinh và Kim bản Ðại Tạng Kinh, là những sự nghiệp vĩ đại của Phật giáo Trung Quốc, được mệnh danh là Tống Tạng Di Trân.

Về sau nầy, chắc chắn còn có lần in thêm Ðại Tạng Kinh, nhưng bài nầy chưa có đủ tài liệu để tham khảo.

Ngoài Hán Tạng ra, kinh điển Sanscrit được Tây Tạng dịch trực tiếp từ nguyên bản rất tinh tườngchính xác, gọi là Tây Tạng Phật điển, chia làm 2 phần, một phần gọi là Cam Thù (Kanjur) và một phần gọi là Ðan Thù (Tanjur), cả hai gồm đủ Kinh, Luật và Luận, phân chia như sau:

I. Cam Thù:

  1. Luật Bộ
  2. Bát Nhã Bộ
  3. Hoa Nghiêm Bộ
  4. Bảo Tích Bộ
  5. Kinh Tập (hơn 200 bộ)
  6. Ðại Niết Bàn
  7. Bí Mật Bộ

II. Ðan Thù:

  1. Tán Ca Tập (gồm 58 bộ)
  2. Bí Mật Nghi Quỹ (hơn 2600 bộ)
  3. Luận Thích Tập (rất quan trọng vì có nhiều sớ thích kinh điển, các môn học khác như Nhân Minh, Văn pháp, Âm nhạc, Toán số ...

Việt Nam, từ trước kinh điển dùng chữ Hán, vào những thập niên 30 trở đi mới phiên âm chữ Việt, từ thập niên 50 trở đi mới dịch kinh sang chữ Việt, những dịch giả tên tuổi như Ðoàn Trung Còn, Thích Thiện Hoa, Thích Trí Tịnh, Thích Thiện Siêu, Thích Minh Châu, Thích Thanh Từ ...

I. Luật :

  1. Luật Sa DiSa Di Ni
  2. Luật Sa Di Giải

II. Kinh :

  • Trường A hàm (2 quyển)
  • Trung A Hàm (4 quyển)
  • Tạp A Hàm (4 quyển)
  • Tăng Nhứt A Hàm (3 quyển)
  • Trường Bộ Kinh (2 quyển)
  • Trung Bộ Kinh (3 quyển)
  • Tương Ưng Bộ Kinh (5 quyển)
  • Tăng Chi Bộ Kinh (4 quyển)
  • Ðại Bát Niết Bàn
  • Hoa Nghiêm
  • Pháp Hoa
  • Thủ Lăng Nghiêm
  • Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh
  • Bảo Tích
  • Vị Tằng Hữu
  • Giải Thâm Mật
  • Kinh Hiền Ngu
  • ...

III. Luận:

  • Luận Nhiếp Ðại Thừa
  • Luận Thành Duy Thức
  • Luận Ðại Trí Ðộ
  • Luận Ðại Thừa Khởi Tín
  • Ðại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận
  • Ðại trí Ðộ Luận
  • Trung Quán Luận
  • ...

Bảng kê trên đây còn thiếu sót nhiều, nhưng những kinh quan trọng đều đã được dịch, Tiểu Bộ gồm 15 quyển trong Ngũ Bộ Kinh cũng đã được dịch xong, cuối năm 1999 đã in các tập 1, 2, 3. Kết quả dịch kinh, cho thấy từ trước tuy chưa có tổ chức, nhưng công việc dịch kinh ra Việt Ngữ được chư Tăng, cư sĩ dịch khá nhiều, khá đầy đủ.

Theo trào lưu phát triển khoa học, Ðại Tạng Kinh Pali ở Tích Lan, Thái Lan đã đưa vào CD Rom, Hán Tạng cũng được một hãng điện tử Nhật tài trợ đưa vào CD Rom.

Theo ngài Phật Âm (hay Phật Minh), có 7 cách phân loại thánh điển:

1. Hương vị: Trong Tăng Nhứt Bộ Kinh, Trung A Hàm, Tăng Nhứt A Hàm đều có ghi chép lời Phật dạy sau đây: "Giống như nước biển chỉ có một vị mặn, giáo phápgiới luật của Phật cũng chỉ có một hương vị duy nhất, đó là hương vị giải thoát."

2. Pháp và Luật: Những lời Phật dạy gồm có giáo lý gọi là Pháp, và những phép tắc hành trì mà người tu phải tuân thủ gọi là Luật.

3. Ba phần pháp âm : Những lời Phật dạy gồm có 3 phần : đầu giữa và cuối có ghi trong các kinh: Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Nhứt bộ và trong tạng Luật như sau : "Pháp Phật giảng dạy thuần thiện cả phần mở đầu, phần giữa lẫn phần cuối. Pháp ấy tốt đẹp cả ý nghĩa lẫn lời văn. Toàn bộ pháp âm đều đồng nhất, viên mãntrong suốt, thể hiện trọn vẹn phạm hạnh thanh tịnh."

4. Năm Bộ Kinh. Theo bi ký ở Sanci và Bharhut thì Năm Bộ Kinh là chỉ cho toàn bộ những lời Phật dạy, nhưng theo ngài Phật Âm, Năm Bộ KinhTrường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Nhứt Bộ và Tạp Bộ, trong Tạp Bộ gồm cả Tiểu Bộ, tạng Luật và A Tỳ Ðàm.

5. Chín Bộ Loại: Giáo điển Nam Phương chia thành chín bộ loại là:

  • Khế kinh
  • Ưng Tụng hay Trùng Tụng
  • Cô Khởi
  • Tự Thuyết
  • Bản Sự
  • Bản Sanh
  • Vị Tằng Hữu
  • Vệ Ðà La
  • Vê Da

6. 84,000 Pháp Uẩn

Có nhiều vị cao tăng cho rằng phiền não của chúng sanh có đến 84 ngàn phương cách cho nên Phật dạy 84 ngàn pháp môn để đối trị. Ðây chỉ là ước lệ mà thôi, bởi vì Phật thuyết pháp trong 45 năm, vị chi có 16,436 ngày chẳng lẽ mỗi ngày Phật phải dạy trên 5 pháp môn để đối trị với phiền não ?

7. Tam Tạng, có nghĩa là 3 cái kho chứa, đó là Kinh, Luật và Luận, Phật chỉ thuyết Kinh và Luật còn Luận do các Thánh Tăng hệ thống hóa thành cơ sở triết lý và nó chỉ bắt đầu hình thành trong kỳ Kiết Tập lần thứ ba với tác phẩmThuyết Sự” do ngài Ðế Tử Tu trước tác.

Theo ngài Trí Khải thuộc Thiên Thai Tông ở Trung Hoa, ngài chia Kinh điển Phật thuyết ra làm 5 thời :

Thời thứ nhất: Sau khi Phật đắc đạo ngồi lại dưới gốc cây Bồ Ðề giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên nghe.

Thời kỳ thứ hai: Thấy lời nói của mình khôn ai hiểu, Phật đến Vườn Nai, giảng Tứ Diệu Ðế và Thập Nhị Nhân Duyên cho nhóm ông Kiều Trần Như nghe, những lời Phật giảng trong thời gian nầy được ghi vào kinh A Hàm, nên gọi là thời A Hàm, kéo dài 12 năm.

Thời kỳ thứ ba: Giáo lý của Phật đã lan rộng trong dân gian, bị ngoại đạo và các phái triết học khác công kích, nên Phật giảng dạy cho đệ tử các giảng minh giải đáp được ghi trong kinh Duy Ma, Ðại Tập, thời kỳ nầy kéo dài trong 8 năm, gọi là thời Phương Ðẳng.

Thời thứ tư: Do các phái triết họcngoại đạo công kích với những triết thuyết cao siêu, nên Phật phải giảng về những nguyên lý cùng tột của vũ trụ, đó là thời kỳ kinh Bát Nhã, kéo dài trong 22 năm.

Thời kỳ thứ năm: Phật giáo đã vượt lên các học thuyết đương thời, bấy giờ Phật đem lý tưởng Bồ Tát đạo và Nhất Thừa Phật Giáo giảng cho đệ tử, thời kỳ nầy là thời Pháp Hoa, kéo dài trong 8 năm và cuối cùng Phật thuyết về Niết Bàn trước khi tịch diệt.

Từ thế kỷ thứ VIII quân Hồi luôn xâm chiếm Ấn Ðộ, đốt phá chùa chiền, hảm hại Tăng, Ni, cho đến năm 1203, quân Hồi đem quân đánh chiếm Ấn Ðộ lần cuối cùng, hoàn tất cuộc xâm lăng đất Ấn, đạo Phật bị diệt vong ngay quê hương của Ðức Phật, do vậy mà không còn những Thánh Tăng sáng tác kinh, luận để truyền bá Phật Giáo, chẳng những thế mà Tam Tạng kinh điển ghi chép bằng Sanscrit hầu hết đều không còn.

Liệt kê những Kinh Sách nêu trên, để thấy Kinh điển nguyên thủy Nam TôngBắc Tông không sai khác nhiều, chỉ có những kinh điển do Thánh Tăng Ấn Ðộ sáng tác mang lại cho Phật Giáo Bắc Tông nhiều kinh điển hơn. chung quy vì lợi ích chúng sinh, đề cao lý tưởng Bồ Tát Ðạo và quy nguyên Nhất Thừa Phật Giáo.

Có một điều quan trọng, xin nhắc lại lời Phật dạy trong kinh Kim Cang : "Tu Bồ Ðề ! Ông đừng cho là Như Lai nghĩ như vầy: Ta Có Thuyết Pháp. Tại sao vậy ? Nếu người ta nói: Như Laithuyết pháp, tức là phỉ báng Phật, vì không thể hiểu nổi lời ta nói. Tu Bồ Ðề! Thuyết pháp là không có pháp chi để thuyết. Tạm gọi là thuyết pháp."

Và trong Kinh Lăng Già Tâm Ấn Phật dạy: Thế nên nói rằng: "Ta từ đêm ấy được tối chánh giác, cho đến đêm ấy vào niết bàn, ở trong khoảng giữa không nói một chữ, cũng chẳng đã nói, sẽ nói".

Khởi thảo Feb. 20, 2000
Sửa chữa Mar. 12, 2000

Sách tham khảo :

HT Thích Thanh Kiểm Lịch Sử Phật Giáo Ấn Ðộ ,Vạn Hạnh, Sàigòn, Việt Nam, 1963
HT Thích Thanh Từ Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Tu Viện Chơn Không, Việt Nam, 1989
HT Thích Thiền Tâm Phật Học Tinh Yếu, Việt Nam, 1999
Nguyễn Duy Cần Phật Học Tinh Hoa, tái bản lần I, Hồng Ân, Việt Nam, 1996
Cao Hữu Ðính Văn Học Sử Phật Giáo, Tập 1, Hương Sen, Việt Nam, 1996
Nhiều tác giả Phật Học Cơ Bản Việt Nam, 1999
Kinh Nhật Tụng,
Kinh Kim Cang, Việt Nam, 1992

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12801)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26650)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13060)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27029)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32872)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31665)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32587)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13026)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12150)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17503)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18737)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12580)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11783)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13134)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12215)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12502)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11642)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 11991)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10608)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10932)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28337)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11176)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11367)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13602)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11041)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11436)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10902)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11190)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26361)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12387)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14888)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11064)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20337)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12362)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11476)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10770)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23918)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11863)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12307)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12836)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11050)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38740)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10544)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12202)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17716)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25057)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10558)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10769)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12056)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11317)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11591)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14747)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21443)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9905)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11267)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27377)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11186)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11846)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11013)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14314)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant