Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý thức là gì?

14 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 13167)
Ý thức là gì?
Ý thức là gì?
Chánh Tấn Tuệ


LTS: Người ta cứ nghĩ rằng, với sự phát triển của khoa học thì mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới này đều được giải thích một cách thỏa đáng. Nhưng thực tế, khoa học càng phát triển thì càng nảy sinh thêm nhiều vấn đề chưa giải thích được, thách thức trí thông minh và sự tìm tòi của các nhà khoa học. Để tháo gỡ những khó khăn, những nan giải trong các lĩnh vực khoa học, nhiều nhà khoa học đã tìm đến với giáo lý đạo Phật, tìm đến với kho tàng triết học đồ sộ của Phật giáo. Liệu triết học Phật giáo, cụ thể ở đây là Duy thức học, có thể giúp họ đưa ra những kết luận rõ ràng về vấn đề trí thông minh nhân tạo, về những câu hỏi đến từ Cơ học lượng tử, từ Tâm lý học, Xã hội học…? Để giúp mọi người hiểu thêm về vấn đề này, xin giới thiệu đến bạn đọc loạt bài nghiên cứu chuyên sâu về Duy thức học, vấn đề Ý thức - một vấn đề được nhiều nhà Phật học và nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu từ lâu, song vẫn luôn có những phát hiện mới mẻ.


Vị trívai trò của ý thức

Theo Phân tâm học, tâm của con người chia làm hai là ý thứcvô thức. Duy thức học thì phân làm tám và ý thức là một trong tám phần đó. Như vậy, nhìn theo quan điểm nào thì ý thức cũng chỉ là một phần của tâm. Tuy vậy, ý thức rất năng động và có phạm vi hoạt động rất lớn.

Ý thức có thể hướng ra ngoài để tìm hiểu về thế giới, có thể hướng vào trong để tìm hiểu nội tâm, khám phá vô thức. Ý thức có thể duyên được cả ba thời, dung thông cả ba thời quá khứ, hiện tạivị lai. Ý thức có khả năng liên tưởng, tưởng tượng, trừu tượng hóa, phân tích, tổng hợp, suy luận, kết luận… Ý thức còn có vai trò điều khiển nhiều hoạt động của thân xác. Tóm lại, ý thứcthành phần lanh lợi và đa năng nhất của tâm, nên nó được xem là công cụ chính yếu của triết học và khoa học.

Con người là con vật biết tư duy. Chính tư duy đã làm cho chúng ta khác hẳn với các loài khác. Tư duy là một hoạt động của ý thức. Với ý thức, con người đã tạo ra nhiều ngành khoa học, gặt hái được nhiều tri thức. Qua đó con người đã làm thay đổi thế giới, thống trị thế giới. Hiện nay, chúng ta đã sở hữu được một lượng kiến thứctri thức khổng lồ về các hiện tượng thiên nhiêntâm linh nhưng chúng ta lại có quá ít hiểu biết về ý thức của chính mình. Câu hỏi “ý thức là gì?” trở thành yêu cầu cấp bách.

Giải quyết câu hỏi này sẽ giúp chúng ta hiểu được bản chất của nhận thứctư duy, qua đó giải quyết được nhiều vướng mắc mà các ngành khoa học đang gặp phải. Trả lời được câu hỏi trên cũng giúp chúng ta giải quyết được vấn đề nhận thức của khoa học. Vì sao? Vì khoa học là những môn học về hiện tượng, qua quá trình phát triển hiện đang phải đối mặt với vấn đề bản thể học. Có thể nêu cụ thể một số trường hợp sau:

1. Trong lãnh vực robot học, có một câu hỏi gây tranh cãi trong các thập kỷ qua là: “Trí thông minh nhân tạo” (artificial Intelligence) có thể trở thành hiện thực không? Nói cách khác, người ta có thể tạo ra các robot thông minh như con người không? Nhiều nhà khoa học cho rằng có. Nhiều nhà khoa học khác cho rằng không. Cho đến nay vấn đề này chưa ngã ngũ vì chưa giải quyết được câu hỏi ý thức là gì?

2. Trong lãnh vực vật lý: Theo quan điểm cổ điển, thế giới là một thực thể tồn tại độc lập với ý thức của con người. Chính vì thế, thái độ đúng đắn của một nhà vật lý là đóng vai trò quan sát khi làm thí nghiệm. Trong vật lý hiện đại, cụ thể là trong cơ học lượng tử, khi quan sát các thành phần cơ bản của vật chất, các hạt cơ bản, các hạt này vừa có tính liên tục của sóng, vừa có tính không liên tục của hạt. Điều khó hiểu là khi con người tìm cách đo lường quan sát, nó mới tự cụ thể hóa bằng hạt. Nếu khôngquan sát viên thì không thể nói nó là gì. Chính vì thế, trong cơ học lượng tử, nhà vật lý không chỉ đóng vai trò một quan sát viên mà còn đóng vai trò của một người tham gia khi làm thí nghiệm. Điều này đặt ra một số câu hỏi sau: Phải chăng thế giới được xây dựng bằng ý thức của con người? Phải chăng thế giới được hình thành do có sự tham gia của ý thức? Nếu có, ý thức tham gia ở mức độ nào trong việc tạo nên thế giới?

Trên chỉ là hai trường hợp cụ thể. Trong thực tế, việc hiểu được ý thức còn giải quyết được nhiều vướng mắc của các ngành khoa học khác.

Ý thức trong Duy thức học

Theo Duy thức học, tâm chúng ta tạm phân thành tám: Năm thức trước, là nhãn thức, nhĩ thức, tĩ thức, thiệt thức, thân thức, được gọi là tiền ngũ thức, cộng với phần ý thức được gọi là sáu thức ngoài, chúng ta dễ dàng nhận ra chúng. Hai thức sau là thức mạt-na và thức thứ tám, gọi là hai thức trong, vì chúng hoạt động một cách âm thầm, sâu kín, khó nhận thấy. Sáu thức ngoài hoạt độnggián đoạn, lúc có, lúc không. Hai thức trong hoạt động không gián đoạn

Căn, cảnh, thức

Sáu thức ngoài mỗi thức đều có chỗ nương riêng. Chỗ nương của thức gọi là căn. Nói cách khác, căn là nơi phát ra thức. Tương ứng với sáu thức ta có sáu căn là nhãn căn (con mắt), nhĩ căn (lỗ tai), tĩ căn (lỗ mũi), thiệt căn (cái lưỡi), thân căn (cơ thể) và ý căn (chính là mạt-na). Sáu căn, mỗi căn có khả năng kết hợp với một loại cảnh riêng, để tạo ra thức. Cụ thể như:

Nhãn căn kết hợp với sắc cảnh để tạo ra nhãn thức, là sự nhận biết về sắc tướng (hình ảnh, màu sắc).

Nhĩ căn kết hợp với thanh cảnh để tạo ra nhĩ thức, là sự nhận biết về âm thanh

Tĩ căn kết hợp với hương cảnh để tạo ra tĩ thức, là sự nhận biết về mùi.

Thiệt căn kết hợp với vị cảnh để tạo ra thiệt thức, là sự nhận biết về vị.

Thân căn kết hợp với xúc cảnh để tạo ra thân thức, là sự nhận biết về xúc chạm.

Ý căn kết hợp với pháp cảnh để tạo ra ý thức, là sự nhận biết về pháp.

Đến đây, để dễ nhận ra tính thực tếhợp lý của cách phân chia trên, chúng ta hãy làm một sự đối chiếu giữa Duy thức họcTâm lý học mà cụ thể là Phân tâm học phương Tây.

Theo Phân tâm học, tâm linh chúng ta được phân thành hai là ý thứcvô thức.

Vô thức là phần tâm linh hoạt động ở bên ngoài ý thức. Ý thức của chúng ta chỉ biết được chút ít về vô thức. Có nhiều vùng của vô thức, ý thức hoàn toàn không biết. Vô thức chính là thức mạt-na và thức thứ tám trong Duy thức học.

- Vì chưa thể phân tích vô thức thành hai phần như Duy thức học, nên Phân tâm học không thể lý giải tính cá nhân, còn gọi là sự chấp ngã, có mặt nơi các chủ thể nhận thức. Chấp ngã, là cho rằng ta là chủ thể thân tâm của chính mình.

- Vì ý thức lấy mat-na làm căn, phần này thuộc về vô thức, nên ý thức luôn chịu sự tác động của vô thức. Đây là điều đã được Phân tâm học khám phá, nhưng Phân tâm học chưa thể chỉ ra tác động ấy trong từng ý niệm như Duy thức học

Sáu thức ngoài được Phân tâm học gom về ý thức. Sở dĩhiện tượng này, vì theo truyền thống, các nhà tâm lý phương Tây vẫn cho rằng các giác quan như mắt, tai… là thành phần của bộ máy sinh lý. Chỉ có ý thứcthành phần của bộ máy tâm thần (thành phần tâm lý). Điều này dẫn đến các hệ quả sau:

Việc xem mắt là chiếc máy chụp ảnh, tai là máy ghi âm… khiến Tâm lý học không thể giải thích tại sao khi một tác động bên ngoài (là một hiện tượng vật lý, thuần mang tính vật chất) kích thích lên các giác quan (cũng là thành phần mang tính vật chất) lại tạo ra các cảm giác, là một hiện tượng tâm lý. Tâm lý gia Bourdon nói: “Sự xuất hiện cảm giác sau khi có sự kích thích không thể giải thích được”. Nếu quy các cảm giác về cho ý thức, chúng ta vẫn gặp lại những khó khăn trên, nên Clarapèle viết: “Vấn đề triết học liên hệ đến nguồn gốc của ý thứcvấn đề khó khăn nhất”. Cụ thể hơn, dù máy chụp hình có ghi lại được các hình ảnh thì chúng ta cũng không thể nói rằng máy chụp ảnh biết được các hình ảnh mà nó đã chụp được. 

Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết. “Thắng nghĩa căn” là phần tịnh sắc vi tế. Nó là thể của phù trần căn, và là chỗ nương chính của 5 thức nhãn thức, nhĩ thức… Bát Thức Qui Cũ nói: “Ngũ thức đồng y tịnh sắc căn”. Căn, là chỗ thức y tựa, nhưng cần hiểu nó như một duyên giúp 5 thức sinh khởi hơn là thứ tạo ra 5 thức. Gốc, đều bắt nguồn từ thức thứ tám.

Theo tinh thần Duy thức, các căn đều là sự biến hiện của thức, không lìa thức mà có, nên ở nơi căn đã hàm chứa đủ hai thành phần sinh lýtâm lý. Vì vậy, việc xuất hiện các cảm giác (các thức ngoài) khi căn tiếp xúc với trần cảnh là điều tự nhiên

Việc quy 6 thức ngoài vào ý thức đã đồng hóa sự nhận biết của 5 thức trước với việc nhận biết của ý thức. Điều này không phù hợp với thực tế. Trên thực tế, ý thức không thể nhận biết trực tiếp về trần cảnh. Ta có thể dễ dàng kiểm chứng: Nếu mắt bị mù, tai bị điếc… thì chúng ta không thể nhận thức về hình ảnh, âm thanh… dù các cảnh ấy đang hiện diệný thức vẫn còn đó. Ý thức chỉ biết các trần cảnh thông qua 5 thức ngoài và xem đó là những biểu hiện của pháp. Nói cách khác, thứ mà ý thức nhận biết là pháp, không đồng với đối tượng nhận biết của 5 thức ngoài.

Vậy “Pháp” là gì? Tại sao đối tượng nhận biết của ý thức lại là pháp? Tâm của ta vận hành thế nào để tạo ra một ý niệm về pháp trong ý thức?

Muốn hiểu được các điều trên, trước hết cần phân biệt hai loại ý thức: Ý thức hiện lượngý thức phân biệt.

Ý thức hiện lượngý thức phân biệt

Ý thức hiện lượng: Còn gọi là ý thức vô phân biệt, là loại ý thức vừa sinh ra đã có(1) Lúc còn bé, người ta thường sống với loại ý thức này. Với ý thức vô phân biệt, chúng ta cũng biết về trần cảnh thông qua 5 giác quan, nhưng không khởi lên các ý niệm phân biệt như cái này, cái kia, trong, ngoài…

Ý thức phân biệt: Loại ý thức này chỉ xuất hiện và phát triển theo quá trình lớn lên của con người. Đây là loại ý thức tập thành. Nghĩa là do huân tập mà có. Ý thức phân biệt có được từ kinh nghiệm sống của cá nhân và từ sự giáo dục của gia đìnhxã hội.

Thí dụ 1: Một đứa bé bò chơi quanh phòng, chụp được gì liền cho vào miệng. Nếu nuốt được nó sẽ nuốt, không nuốt được nó sẽ nhả ra. Nếu sự việc này diễn ra nhiều lần (tập) đứa bé sẽ dần nhận ra thứ gì ăn được, thứ gì không ăn được.

Thí dụ 2: Một đứa bé, nếu được hướng dẫn cái này là ghế, cái này là bàn… và sự hướng dẫn diễn ra nhiều lần (tập) thì về sau đứa bé sẽ tự mình gọi tên khi nó gặp các vật đó.

Hai thí dụ trên cho thấy việc huân tập từ kinh nghiệm sống và từ sự giáo dục đã làm hình thành các ý niệm phân biệt. Khi ý thức lấy các ý niệm phân biệt này làm cơ sở cho sự nhận biết về thế giới thì gọi là ý thức phân biệt.

Nơi người trưởng thành, ý thức phân biệt chiếm ưu thế. Ý thức hiện lượng vẫn còn đó nhưng khó nhận ra. Khi căn tiếp xúc với trần cảnh, ở sát na đầu tiên, ý thức vẫn còn trong trạng thái hiện lượng. Qua sát na thứ hai, ý thức phân biệt mới xuất hiện.

Những ý niệm phân biệt được tạo ra theo nhiều cách khác nhau. Ở con người, phương tiện chính để tạo ra các ý niệm phân biệtngôn từ. Ngôn từ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các ý niệm phân biệt cho con người.

Đôi điều cần biết về ngôn từ

Trước hết, chúng ta cần lưu ý, khi mới sinh ra không ai biết gì về ngôn ngữ. Nếu một cá nhân không được hướng dẫn, dạy dỗ, không có điều kiện tiếp xúc thường xuyên với ngôn ngữ thì cá nhân ấy khi lớn lên vẫn không biết sử dụng ngôn ngữ. Điều đó cho thấy, ngôn ngữ không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng tập thành. Ngôn ngữ chỉ được hình thành sau quá trình huân tập.

Ngôn ngữ với tính cách uyển chuyển của nó đã cho phép tạo ra vô vàn ý niệm phân biệt. Như cũng là màu xanh mà có xanh nhạt, xanh đậm… càng có nhiều ý niệm phân biệt thì ý thức phân biệt càng phát triển, kéo theo sự phát triển của tư duy. Vì thế, chính ngôn từsự giáo dục đã làm cho con người khác hẳn các sinh vật khác.

Thông thường, một đứa bé bắt đầu tiếp cận với ngôn ngữ bằng cách tập gọi tên các sự vật quen thuộc. Việc gọi được tên các sự vật góp phần tạo ra sự nhận thức tách biệt rạch ròi giữa các sự vật. Song song với quá trình tách biệt các sự vật với nhau, là tiến trình gắn thuộc tính cho từng sự vật. Điều này dẫn đến một cách nhận thức mới. Đó là cách nhận thức về các sự vật trong thế giới thông qua ngôn từ. Đây là môi trường hoạt động chính của ý thức phân biệt

Nhìn trên chiều sâu của tâm, ngôn từ đã hình thành theo phương thức sau: Khi một đứa bé được chỉ dạy cái này là bàn, cái này là ghế… thì hình ảnh và tên gọi của các vật sẽ được ghi nhậnlưu trữ trong tâm. Nếu việc chỉ dạy này diễn ra nhiều lần, về sau khi bắt gặp các vật đó, đứa bé sẽ gọi được tên các vật đó.

Sau khi ghi nhận, ngôn từhình ảnh của sự vật đều được lưu trữ trong tâm. Nói chính xác là được lưu trữ trong thức thứ tám. Vì sao? Vì 5 thức ngoài hoạt độnggián đoạn và chỉ duyên với các cảnh hiện tại, nên ngôn từhình ảnh không thể lưu trữ ở đó. Chúng cũng không thể được lưu trữ nơi ý thức, vì ý thức hoạt độnggián đoạn. Lại nữa, nếu được lưu trữý thức thì chúng ta phải thường thấy chúng. Trên thực tế, ngôn từ về một sự vật nào đó chỉ xuất hiện lúc thích hợp. Lúc bình thường nó không xuất hiện nơi ý thức. Do có khả năng lưu trữ đó mà thức thứ tám còn có tên là “tạng thức”, là kho chứa các chủng tử thức.

Trong thời điểm hiện tại, khi mắt bắt gặp một sự vật mà ta có thể gọi tên chúng, điều đó cũng có nghĩa là tên gọi các sự vật đã được lưu trữ trong tạng thức. Nói theo Phân tâm học, là đã được lưu trữ trong vô thức. Nếu trước đây ta chưa từng biết tên các sự vật đó, thì ở hiện tại khi bắt gặp các sự vật đó, ta không thể biết tên gọi của chúng.

(Còn tiếp)

 

(1) Đây chỉ nói về hiện đời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1334)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1556)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1689)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1664)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1050)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1538)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1538)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1704)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1971)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1563)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1390)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1401)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1583)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1173)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1305)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1313)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1722)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1673)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3057)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1855)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1391)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1237)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1300)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1443)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1343)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1943)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1711)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1912)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1846)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2422)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1807)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2166)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2272)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2339)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1878)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1993)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2060)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1992)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2637)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1971)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1921)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1977)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1932)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2205)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2354)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2022)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2138)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1905)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1960)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2457)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2362)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4098)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2532)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3240)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2506)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2081)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1823)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3336)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2383)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant