Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

08. Ngũ Uẩn trong Bát Nhã Tâm Kinh

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 14072)
08. Ngũ Uẩn trong Bát Nhã Tâm Kinh

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG I
NGŨ UẨN TRONG BÁT NHÃ TÂM KINH

Bài Bát Nhã Tâm Kinh không phải là một bộ kinh to lớn và nhiều quyển như “Đại Tạng Kinh, Hoa Nghiêm Kinh hay Pháp Hoa Kinh...”. Đây chỉ là một bài Kinh Bát Nhã chỉ có (262) chữ, ngắn gọn nhưng rất sâu sắc và triết lý rộng bao la, không bút nào tả xiết, bản kinh này không những là phần cô kết nhất của những tinh hoa trong tư tưởng triết học Phật Giáo, mà còn trình bày con đường tu tập thực tiễn, đó là con đường hiện quán, đi vào suối nguồn tuệ giác vô thượng; một con đường duy nhất có thể thoát ly tất cả khổ đau ngay tại cuộc đời này, bài kinh được ngài Huyền Trang đời Đường dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán vào năm 649 tây lịch. Hầu hết các Phật Tử đều thuộc lòng vì đó là một bài Kinh tụng niệm hàng ngày. Tuy nhiên, ít người hiểu biết một cách sâu rộngthấu triệt được ý nghĩa của từng câu, từng đoạn trong bài Kinh này.

Để giúp cho một số Phật Tử hiểu rõ thêm về ý nghĩa của bản Tâm Kinh, tôi cố gắng sưu tầm và biên soạn ra đây một câu mà tôi cảm thấy tâm đắc nhất, và có liên quan trực tiếp với mỗi con người, hầu góp phần trong việc phổ biến Phật Pháp, nếu quí vị cao tăng hoặc trí thức Phật Giáo nào có thêm các dữ kiện hay nhận xét gì xin chỉ giáo theo địa chỉ E-Mail ndcan2000@yahoo.com, để tôi học hỏi thêm.

Trước hết tôi xin sơ lược về lịch sử Kinh Bát Nhã. Về mặt lịch sử tư tưởng, kinh Bát Nhã là một bộ kinh đầu tiền truyền bá tư tưởng Đại thừa (Mahayana), bắt nguồn từ miền Nam Ấn Độ, thuộc trung tâm truyền giáo của Đại chúng bộ (Mahàsamghikà) và biểu tượng trung tâm của kinh này là Tánh Không (Sùnyata). Về nội dung, Tâm kinh được xem như là “Trái Tim” của toàn bộ Đại Bát Nhã, cũng như của tư tưởng Phật Giáo được nói ra bởi Tuệ giác Vô thượng của Phật, bởi vì chỗ giác ngộ của Phật là “Biết tất cả mà không chấp” nhằm dẫn dắt chúng sinh đi vào thực tại giải thoát

Trong câu đầu tiên của bài “Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” ta thấy Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Nếu dịch ra tiếng Việt ta thấy = Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác Vô thượng (1) Người tỉnh thức bình yên (2) soi sáng như thật rằng tự tính của 5 hợp thể (3) đều là không (4) liền thoát ly mọi khổ ách. Trong đoạn trên kỳ này tôi chỉ bàn tới “Ngũ Uẩn” (năm hợp thể đều là không). Tôi muốn nói tới con người. Tạo Hóa (xin xem bài Tạo Hoá là gì? trong tập sách này). Sinh ra con người đã cấu tạo thành hai phần đó là thể xác và linh hồn mới thành thực thể của con người hiện hữu trên thế gian đó là:

“NGŨ UẨN”. Năm Uẩn là: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩnthức uẩn.

Bây giờ ta hãy tìm hiểu về Sắc Uẩn (Rupa ajkandha), trước hết tôi muốn nói tới ý nghĩa của chữ UẨN (skandha) “thuật ngữ”. Tiếng Phạn là Tắc-kiện-đà. cách dịch cũ là Ấm, nghĩa là che lấp, che khuất, ý nói các pháp sắc tâm che lấp chân lý. Cách dịch mới là UẨN, nghĩa là tích tập chứa nhóm, ý nói các pháp sắc tâm lớn nhỏ trước sau tích tập mà tạo ra tự thể, chẳng hạn như Sắc Uẩn, Tâm Uẩn... (thể xác và linh hồn).

SẮC UẨN: Sắc uẩn gồm có 4 thể chất đó là: Đất, nước, gió, lửa, (tứ đại) hay nói cách khác gồm có 4 đại năng tạo, bốn đại sở tạo, và bốn biểu sắc. Bốn đại có 2 nghĩa là 4 đại chúngchấp thọ đại.

1.- Đại chúng: Tứ đại là đất, nước, gió, lửa. Chúng là hạt giống. Tất cả sự vật chất đều do tứ đại mà có nên gọi là chúng, tứ đại cũng như hạt giống. Cây được sinh ra từ hạt giống. Cũng vậy, tứ đại là cái gốc, từ đó sinh ra tất cả sự vật khác, vật chất khác, nên gọi là tứ đại chúng. Gọi tắt là tứ đại. Bốn thứ này có tính chất rộng lớn, hiện diện khắp tất cả vạn vật, nó có bốn đặc tính:

a.- Sở ý đại: Chỗ nương rộng lớn; tất cả sắc pháp, mọi sự vật, mọi hiện tượng đều nhờ có 4 đại mà hiện hữutồn tại

b.- Thể đại: Thể của bốn đại là rộng lớn, cũng có thể nói nó là bản thể của sự vật.

c.- Tướng đại: Tướng của bốn đại rộng lớn, đó là những biểu tướng hiện hữu nơi mỗi sự vật khiến ta có thể nhận thức được. Ví dụ: Đất có biểu tướng là cứng, có biên giới, có hình tướng rõ ràng. Nước có biểu tượng là thấm ướt, lưu chuyển. Lửa có biểu tượngnóng bức và thiêu đốt. Gió có biểu tượng là cuốn hút và co giãn, lay động. Tướng của đất là đại địa, tướng của nước là đại hải, tướng cuả gió là cuồng phong, tướng của lửa là đại hỏa.

d.- Dụng đại: Là tác dụng, là hoạt dụng của bốn đại. Đất: có tác dụng nâng đỡ và chứa nhóm. Nước: có tác dụng nối kết, nâng đỡ và dung hóa sự vật; Gió: vừa có tác dụng trưởng dưỡng vừa có tác dụng phá hủy: Như gió nhẹ làm cây xanh tốt, nẩy nở, hơi thở đều hòa làm người khỏe mạnh nhưng gió mạnh quá thì sẽ làm cây gãy đổ. Lửa: có tác dụng thiêu đốt và làm chuyển hóa tứ đại lẫn nhau (từ địa chuyển hóa thành thủy phải nhờ sự nung chẩy của hỏa, như nấu sắt, đồng chảy thành thể lỏng).

Do bốn đặc tính của tứ đại ấy mà kinh thường nói đến đại tam tai tức là ba tai nạn phá hủy lớn: Thủy tai, Hỏa taiPhong tai. Bốn đặc tính của Đất, Nước, Gió, Lửa có thể nói tóm tắt với các từ là tính chắc cứng, tính ướt nhuyễn, tính chuyển động, và tính nung nóng (cố thể là đất, dịch thể là nước, động lực là gió và nhiệt lực là lửa) hay gọn hơn thì nói là Thể và Lực.

2.- Chấp Thọ: Nói cho đủ là “chấp vi tự thể linh sanh giác thọ”. Nói tắt là chấp thọ. Vậy chấp cái gì và thọ cái gì? Cơ thể của chúng ta được nuôi dưỡng bằng chén cơm, bình nước hay các chất bột khác như bánh, bún, mì v.v... những thứ ấy đều là tứ đại cả. Khi chén cơm, bình nước, cái bánh.. để giữa bàn nó là vật vô tri vô giác, ai muốn đánh đập gì cũng được. Nhưng khi nó được đưa vào cơ thể của chúng ta, tứ đại ấy đã biến thành tự thể của chúng ta, nếu có ai đến vuốt ve, nịnh hót thì ta thọ vui, đến chửi rủa hay đánh đập thì ta thọ khổ. Như vậy từ tứ đại mà sanh ra tự thể và tự thể mà sanh ra có cảm giác, biết vui, biết buồn là giác thọ. Thuận với nó thì nó vui, (thọ lạc); nghịch với nó thì nó khổ (thọ khổ). Như thế là “Chấp vi tự thể linh sanh giác thọ”, nói tắt là chấp thọ. Nói tóm lại khi thân ta thọ một pháp gì thuận hợp với ta thì ta cảm thọ vui, Thọ pháptrái với ta thì ta cảm thọ khổ, buồn. Vui thì biết vui, buồn thì biết buồn chứ không so sánh phân biệt gì cả.

3.- Tưởng: Nhưng đến khi tường thủ tướng ấy thì nó gom lại tất cả các tướng đã lãnh thọ nó rồi nó đối chiếu, so sánh, phân biệt, rồi nó sắp đặt lại.

Nếu không có sự so sánh, phân biệt của tưởng thì tất cả các Pháp đều bình đẳng như nhau trong một tương quan trùng trùng duyên khởi ở trong bể pháp giới, không có cái gì tách biệt. Thế nhưng tưởng đem cắt nó ra, riêng biệt từng phần, sắp đặt phân biệt; so sánh pháp này với pháp khác và đặt tên riêng cho nó. Vì thế mà có tướng núi, tướng sông, hoa, lá, cây, cỏ con người con vật v.v... Đó là tác dụng của Tưởng.

Vì vậy, ta thấy người có học thức, kiến thức rộng rãi với người ít học và trình độ hiểu biết kém nó khác nhau nếu hai loại người này ngồi chung với nhau để thảo luận một đề tài nào đó thì thật khó có thể hòa hợp được. Trên đây tôi chỉ phân biệt đơn giản nhưng rõ ràng để ta có thể thấu hiểu được sự khác biệt của hai chữ Thọ và Tưởng. Ngay trong kinh dậy người tu thiền quán nên có một cái tâm luôn luôn sống trong hiện tại. Khi Thọ mà không đem tưởng vào thì ta mới sống trong hiện tại được. Thí dụ khi ăn cơm, ta chỉ biết miếng cơm, ta đang nhai trong miệng là ta đang sống với hiện tại. Còn ta biết so sánh cơm bây giờ ngon hơn cơm hôm qua hay ngược lại thì đã có tưởng vào nên sinh ra lắm chuyện khen chê. Con người lúc sơ sanh sống với tiền ngũ thức nhiều hơn, khi có tưởng vào mới có ý thức phân biệt, so sánh và đặt tên cho sự vật; đó tức là lý trí.

4.- Hành: Như trên đã nói hành uẩn là thiên lưu, tạo tác. Tạo tác này lấy “Tư tâm sở” làm chủ yếu. Tư đây là ý chí. Tưởng mới chỉ là ý nghĩ thôi, còn khi quyết định làm, quyết định hành động là thuộc về hành thuộc về Tư Tâm Sở.

5.- Thức: Là liễu biệt, là nhận thức. Nó khác với vô tri vô giác. Năm thứ trên đây: Thọ, Tưởng, Hành, Thức là thuộc về Tâm. Sắc Uẩn thuộc về Thân. Thân Tâm hợp lại thành con người có đủ thể xác và tâm linh. Khi phân tách ra thì gọi là ngũ uẩn, gom lại thì gọi là danh sắc hay sắc tâm. Ta nói sắc pháp, tâm pháp hai thứ ấy cũng giống như khi nói về con người nói chung lại là thể chấttâm hồn. Cho nên đây là phần căn bản nhất.

Trong duy thức học có chia ngũ vị bách pháp (5 vị 100 pháp). Năm vị là gì? Là sắc vị, tâm vị, tâm sở vị, tâm bất tương ưng vị, và vô vi vị, mà 5 vị ấy gồm có 100 pháp, ngũ uẩn này cũng gồm có 100 pháp. Tuy chỉ có 5 nhưng trong đó gồm cả 100 pháp. Nếu chi tiết hóa ra thì nó còn rất bao la.

Trên đây tôi chỉ phân tách đại cương về ngũ uẩn, hầu giúp cho một số Phật tử hiểu rõ về sự cấu tạo nên con người do hợp thể của năm uẩn ở trên. Từ đó quí Phật tử thấy rõ khi con người đã chết tức là hồn lìa khỏi xác, cái thân xác đó là sắc, thần thức hay linh hồn đã ra khỏi xác và đi lên một thế giới khác tuỳ theo cái nghiệp của người đó khi còn sinh tiền đã tạo được bao phước báu để lên một thế giới an lành, niết bàn hay địa ngục, ngạ quỷ đều do cái nghiệp của người đó đã có. Tuy nhiên để trợ lực cho hương linh của người quá vãng sớm cao đăng Phật Quốc rất cần sự nguyện cầu của chư Tăng, Ni và Phật tử hiệp lực (tha lực) nhất tâm đảnh lễ cầu xin Đức Phật A-Di-Đà tiếp dẫn hương linh người quá cố sớm vãng sanh cực lạc quốc. Còn cái xác không hồn đưa đi thiêu hay an táng nơi nghĩa trang đó là sự tiêu hủy cái Sắc “Cát bụi trở về với cát bụi”. Không có gì liên quan đến thần thức (linh hồn) của người đã chết.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1615)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1612)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1008)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1480)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1463)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1640)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1909)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1488)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1327)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1344)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1516)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1117)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1241)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1245)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1674)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1623)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 2914)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1798)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1353)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1207)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1264)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1380)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1298)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1897)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1647)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1863)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1795)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2368)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1773)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2101)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2168)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2282)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1828)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1948)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2001)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1916)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2565)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1916)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1851)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1922)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1866)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2131)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2270)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1944)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2049)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1834)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1883)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2389)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2301)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 3916)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2451)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3153)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2441)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2029)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1782)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3285)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2326)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3000)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2677)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant