Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tứ niệm xứ: Con đường thẳng đến Bát Nhã

11 Tháng Hai 201200:00(Xem: 37362)
Tứ niệm xứ: Con đường thẳng đến Bát Nhã
 

Trong kinh TỨ NIỆM XỨ, ngay vào đầu kinh, đức Phật xác định TỨ NIỆM XỨcon đường độc nhất để đi đến chứng ngộ NIẾT BÀN như sau:

“Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.”

Nói như thế có nghĩa là không có con đường nào khác để đi đến NIẾT BÀN ngoài TỨ NIỆM XỨ

Tại sao lại không thể là con đường nào khác?

-- Tại vì TỨ NIỆM XỨphương cách để tìm hiểu THỰC TƯỚNG và GỐC CỘI KHỔ ĐAU của chính mình.

Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình. Bắt buộc các ngài phải đi xuyên qua sự tìm hiểu về mình và gốc cội khổ đau của mình trước khi nhổ sạch gốc cội khổ đau để chứng nhập Niết Bàn. TÌM HIỂU CHÍNH MÌNH chính là thực hành TỨ NIỆM XỨ. Đức Bổn Sư Thích Ca cũng đã đi qua con đường tìm hiểu chính mình như thế trước khi thành đạo:

153. Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sanh.

154. Ôi! Người làm nhà kia
Nay ta đã thấy ngươi!
Người không làm nhà nữa.
Ðòn tay ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan
Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong

(kinh Pháp Cú)

“Tâm ta đạt tịch diệt, Tham ái thảy tiêu vong” đó là lúc đức Thích Ca chứng nhập Niết Bàn.

Nhưng NIẾT BÀN là thế nào?

-- NIẾT BÀN là sự TẬN DIỆT KHỔ ĐAU.

Đó chính là DIỆT ĐẾ, là sự thật số 3 ở trong TỨ DIỆU ĐẾ. Đó cũng là lúc mà Bồ tát Quán Tự Tại ở trong kinh BÁT NHÃ tuyên bố: “Thoát mọi khổ đau ách nạn”.

Sau đây là đoạn đầu của kinh BÁT NHÃ, với 4 phân đoạn nhỏ có đánh số để tiện việc giải thích.

1. Bồ tát Quán Tự Tại

khi quán chiếu thâm sâu

Bát Nhã ba la mật.

2. Bỗng soi thấy 5 uẩn

đều không có tự tánh.

3. Chứng thực điều ấy xong

ngài vượt thoát tất cả

mọi khổ đau ách nạn.

4. Nghe đây Xá Lợi Tử:

SẮC chẳng khác gì KHÔNG

KHÔNG chẳng khác gì SẮC

SẮC chính thực là KHÔNG

KHÔNG chính thực là SẮC

Còn lại bốn uẩn kia,

Cũng đều như vậy cả.

 

Qua 4 phân đoạn ở trên ta thấy tiến trình để đắc chứng TRÍ TUỆ BÁT NHÃ là như sau:

  1. Bồ tát QUÁN TỰ TẠI thực hành MINH SÁT TUỆ (hành thâm Bát Nhã) cũng là TỨ NIỆM XỨ để chiếu kiến 5 uẩn (các pháp tạo nên con người của ta). Lý do có cụm từ “hành thâm Bát Nhã” là vì khi chiếu kiến ngũ uẩn, Bồ Tát phải dùng trí tuệ soi suốt tận gốc rễ (thâm sâu) của tư tưởng, của tâm thức, của thân xác, cùng những liên hệ sâu xa giữa những biến động của các pháp. Ví dụ sự liên hệ giữa Thức và Tưởng.
  1. Rồi ngài phát hiện 5 uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) đều VÔ NGÃ vì thấy tất cả chúng đều DO DUYÊN SANH, do các pháp khác mà sanh, chẳng phải do ta, chẳng có thành phần nào là của ta, là ta cả. Từ đó thấy mình không là bất cứ cái gì, thấy mình không thực sự hiện hữu (sẽ giải thích thêm ý nghĩa này ở dưới). 
  1. Do thấy mình không còn hiện hữu nên ra ngoài mọi khổ đau tức chứng đắc NIẾT BÀN tịch diệt. Sự kiện này cũng giống như sau khi các ngài Kiều Trần Như nghe Đức Phật thuyết pháp về kinh VÔ NGÃ tướng rồi đắc được quả vị A LA HÁN để hoàn toàn được giải thoát.
  1. Sau đó với tuệ giác VÔ NGÃ ngài thấy bản chất các pháp là “CHƠN KHÔNG”. Ý nghĩa CHƠN KHÔNG được giải thích như sau:

CHƠN KHÔNG là cái KHÔNG luôn luôn chơn thật thường hằng, không phải lúc có lúc mất. Cái KHÔNG này là cái KHÔNG vô diều kiện, không đòi hỏi phải mất mới được KHÔNG. Như vậy thì cái KHÔNG này là cái KHÔNG ở ngay trên cái . (SẮC tức thị KHÔNG, KHÔNG tức thị SẮC, SẮC bất dị KHÔNG). Tức cũng cũng KHÔNG cùng một lúc.

Để có thể hình dung thế nào là KHÔNG ngay trên CÓ ta có thể lấy ví dụ những thứ SẮC thấy trong giấc mơ, hoặc những hình SẮC thấy trên màn ảnh movie, do ánh sáng tạo thành. Tất cả những thứ SẮC đó tuy gọi là SẮC mà chẳng khác gì KHÔNG.

Tuy nhiên muốn hiểu CHƠN KHÔNG của các pháp một cách chính xác phải chứng thực CHƠN KHÔNG trên chính mình trước, bằng sự thực chứng VÔ NGÃ. Muốn thực chứng VÔ NGÃ thì phải thực hành TỨ NIỆM XỨ quán sát 5 uẩn của ta, theo dõi sự sinh diệt của chúng để thấy tất cả chúng đều DO DUYÊN SANH (do các pháp khác mà sanh) chẳng phải do ta, chẳng phải của ta, chẳng phải là ta.

Ví dụ khi ta quan sát sự THỞ cho thật kỷ, ta sẽ thấy sự thở vô thở ra chẳng phải do ta gì cả, mà tự thân nó phải thở. Cho nên chẳng phải “TÔI THỞ” như ta thường tuyên bố từ xưa nay. Thở chỉ là một sự giao động tương tác giữa các pháp hữu vi.

Khi quan sát mọi phần khác của thân và của tâm ta cũng đều thấy “do duyên sinh” như thế. Thấy như thế để chính mình chứng thực ta không có gì cả, ta không là gì cả. Đó là lúc thấy rõ sự thật VÔ NGÃ không còn chút nghi ngờ.

Thấy được VÔ NGÃ như thấy một sự thật như thế gọi là GIÁC NGỘ bằng TRÍ TUỆ (có CHÁNH KIẾN, CHÁNH TƯ DUY) chứ không phải thấy qua FEELING hay bằng VÔ NIỆM (dập tắt ý niệm về NGÃ). Khi thấy VÔ NGÃ như là một sự thật như thế thì bền chắc hơn loại VÔ NGÃ của Ý Niệm hoặc Feeling.

Tuy nhiên bằng CHÁNH TƯ DUY ta có thể suy luận thêm rằng dầu ta thấy ta là KHÔNG, cũng không thể nói ta là KHÔNG vì ta có sự GIÁC BIẾT các pháp, chứng tỏ ta có sự hiện hữu. Đây là một sự hiện hữu ngoài ngũ uẩn, ngoài các pháp hữu vi, ngoài sự sống và chết. Đó là điều mà đức Phật đã nói ở trong Tiểu Bộ kinh:

“Này các Tỷ-kheo, có sự không sinh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi.

Này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sinh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện hữu, khỏi bị làm, khỏi hữu vi.

Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có sự trình bày xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện hữu, khỏi bị làm, khỏi hữu vi.”

Như vậy ta thấy ta cũng KHÔNG mà cũng CÓ. Đó chính là sự chứng nghiệm CHƠN KHÔNG của BÁT NHÃ. Sau khi đã thấy ta là CHƠN KHÔNG (vừa CÓ vừa KHÔNG) thì ngay trên KHỔ ta cũng thấy KHÔNG KHỔ. Như vậy là vừa thấy KHỔ mà vừa thấy NIẾT BÀN (không KHỔ). Khi NIẾT BÀNthể hiện diện ngay trên KHỔ như thế, thì đó là NIẾT BÀNđiều kiện. Vô điều kiện thì có nghĩa là thường hằng không mất mát. Mà như thế mới là NIẾT BÀN chân thật (như là một sự thật vĩnh cữu).

Nói như thế có nghĩa rằng nếu ai muốn trốn tránh sự KHỔ hoặc đòi hỏi KHỔ phải biến mất trước để có NIẾT BÀN thì người đó không hề đạt được NIẾT BÀN chân thật mà chỉ có một loại sung sướng tạm bợ giả dối nào đó mà thôi.

Như vậy thì NIẾT BÀN cũng như VÔ NGÃ là những SỰ THẬT thường hằng khám phá ra bằng trí tuệ qua các tiến trình CHÁNH NIỆM, CHÁNH KIẾNCHÁNH TƯ DUY. Nếu khôngCHÁNH NIỆM, CHÁNH KIẾN, CHÁNH TƯ DUY thì sẽ không chứng thực được sự thật VÔ NGÃNIẾT BÀN.

Với một bậc đã có tuệ VÔ NGÃ, khi sống trong KHỔ thì chỉ “thấy khổ” (như thấy một màu sắc ở bên ngoài ta) chứ “không Khổ” (không có sự cảm thọ khổ vào bên trong ta). Rồi nhờ đã chấm dứt khổ đau, không còn bị pháp nào làm khổ” nên mới thấy các pháp BÌNH ĐẲNG. Do đó mới “không nhơ, không sạch”.

Cũng vậy, sau khi đã chứng ngộ vạn pháp VÔ NGÃ, thì thấy chưa hề có VÔ MINH CHẤP NGÃ. Do đó mới có những lời kinh:

Không hề có VÔ MINH

Không có HẾT VÔ MINH

Cho đến không GIÀ CHẾT

Cũng không HẾT GIÀ CHẾT

Không KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO

Không TRÍ, cũng không ĐẮC.

Vì có NGÃ CHẤP mới có VÔ MINH, mới có KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO để cho cái NGÃ tìm đường giải thoát. Khi đã giác ngộ xưa nay các pháp đều VÔ NGÃ thì chưa hề có VÔ MINH, chưa hề có KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO. Đó là lý do có câu Không KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO ở trong kinh BÁT NHÃ.

Chứ câu đó không có nghĩa rằng pháp TỨ ĐẾ là pháp thấp thỏi của hàng NHỊ THỪA, hạ căn hạ trí như các tổ Thiền tông TQ hay tuyên truyền. Chê bai như vậy sai trái vô cùng. Do chưa chứng Bát Nhã mới hiểu lầm kinh như thế. Họ không biết rằng TỨ ĐẾpháp chỉ có một bậc CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC mới có thể thấu triệt mà thôi (xem kinh Chuyển Pháp Luân). Như vậy thì làm sao TỨ ĐẾ có thể là pháp thấp thỏi được.

Thêm một điều nữa, khi còn NGÃ CHẤP thì mới có GIÀ CHẾT nhưng khi đã giác ngộ VÔ NGÃ thì GIÀ CHẾT chỉ là sự trôi chảy của các pháp hữu vi, không dính dáng gì đến ta, cho nên “không có già chết” mà cũng “không hết già chết”. Vì sau khi chứng ngộ VÔ NGÃ thì các pháp hữu vi vẫn trôi chảy từ trẻ, tới già, rồi chết, không có gì thay đổi.

Nói tóm lại muốn chứng ngộ BÁT NHÃ phải thực hành TỨ NIỆM XỨ quán chiếu Thân, Thọ, Tâm, Pháp, để thấy “ngủ uẩn giai không” để thực chứng VÔ NGÃ. Có chứng VÔ NGÃ rồi mới có thể diễn tả KHÔNG TÁNH của Bát Nhã một cách chính xác như một sự thật đã được chứng kiến rõ ràng.

Cho nên người Phật tử phải biết rằng không thực hành pháp CHÁNH NIỆM, TỨ NIỆM XỨ thì không thể có sự chứng ngộ, không thể có được trí tuệ BÁT NHÃ. Trong Tương Ưng bộ kinh, Phật đã giảng rằng, nơi nào thời nào mất TỨ NIỆM XỨ thì nơi đó thời đó sẽ không có người chứng ngộ rồi giáo pháp sẽ suy tàn

Trái lại nơi nào, thời nào, còn có người thực hành TỨ NIỆM XỨ thì sẽ có nhiều bậc chứng ngộ để làm giáo pháp càng thêm sung mãn. Xem trọn lời Phật giảng ở đây: http://hoavouu.com/D_1-2_2-219_4-21393_5-15_6-1_17-672_14-2_15-2/su-ton-tai-cua-dieu-phap.html

Vì pháp TỨ NIỆM XỨ quá quan trọng như thế cho nên trước khi nhập Niết bàn Đức Phật đã căn dặn ngài A NAN rằng sau khi Như lai diệt độ hãy nương pháp TỨ NIỆM XỨ mà tu. Lời dặn này có ghi rõ trong kinh ĐẠI BÁT NIẾT BÀN của cả Đại Thừa lẫn Nguyên Thủy.

Về sau Bồ tát LONG THỌ, trong ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN, tập III, cuốn 48, cũng nhắc lại lời dạy của Phật trong kinh ĐẠI BÁT NHÃ (của Đại Thừa) rằng: “Bốn Niệm XứĐại Thừa của Bồ Tát”. Có nghĩa rằng mất TỨ NIỆM XỨ là mất Đại Thừa. và điều đó đã và đang xảy ra ở Trung Hoa.

http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-61_4-3323_5-50_6-1_17-45_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark

Khổ thay, các tổ Thiền Tông Trung Hoa do sự hiểu lầm tưởng Trí Bát Nhã là trí VÔ PHÂN BIỆT, nên đã thay thế pháp CHÁNH NIỆM (có sự phân biệt) bằng pháp VÔ NIỆM để tâmthể đạt ngay trình độ “vô phân biệt”. Nhưng các tổ đã không biết rằng loại Bát Nhã như vậy là loại BÁT NHÃ “áp đặt” của TƯ TƯỞNG, còn trong vòng NGŨ UẨN, chứ không phải là TRÍ BÁT NHÃ ở cấp độ VÔ NGÃ đã ra ngoài ngũ uẩn.

Phải biết rằng BÁT NHÃ là sự chứng ngộ, là “điểm đến” của NIẾT BÀN chứ không phải là “con đường đi”. Do đó ai cố uốn nắn tâm theo sự thấy của Bát Nhã, để được “tức khắc giải thoát”, là tu lấy đuôi làm đầu. Tu kiểu đó là đi ngược chiều giác ngộ.

Đừng tưởng một bậc chứng ngộ Bát Nhã trở thành VÔ PHÂN BIỆT, để rồi muốn “đốn ngộ” ngay đến sự VÔ PHÂN BIỆT đó bằng cách coi NHƠ cũng như SẠCH, coi ÁC cũng như THIỆN. Tu tập như thế thì chỉ có thêm bệnh hoạn, và có ngày sẽ bị vào tù. Nên nhớ rằng, khi chúng ta còn vô minh chấp ngã, chưa chấm dứt khổ đau, thì không thể bắt chước cái nhìn bình đẳng của một bậc VÔ NGÃ mà đối xử với các pháp được.

Các bậc chứng ngộ vẫn luôn luôn có trí phân biệt. Vì PHÂN BIỆT là khả năng của TRÍ TUỆ. Hễ có GIÁC BIẾT là phải có sự PHÂN BIỆT. Không có sự phân biệt thì chẳng còn nhận ra được cái gì. Chỉ có kẻ hôn mê mới không còn khả năng phân biệt. Nếu các ngài không còn Phân Biệt thì làm sao biết mình đã giác ngộ? Đương nhiên các ngài vẫn còn phân biệt ĐÚNG/ SAI, CHÁNH/ TÀ để hướng dẫn chúng sanh. Tu hành cũng phải có khả năng phân biệt để nhận ra được các sự thật như DUYÊN KHỞI, 12 NHÂN DUYÊN, TAM PHÁP ẤN, TỨ ĐẾ thì mới có thể đắc đạo.

Rất mong bài này sẽ giúp cho nhiều phật tử VN tỉnh thức, trở về chuyên tu pháp CHÁNH NIỆM TỨ NIỆM XỨ để sớm đắc chứng BÁT NHÃ. Được như thế thì DIỆU PHÁP của Phật sẽ càng ngày càng sung mãn trên đất nước VN; Để rồi Phật tử VN còn giúp cho Trung Hoa phục hồi lại CHÁNH PHÁP của Phật.

 

Nam mô CHÁNH TINH TẤN Bồ Tát Ma Ha Tát
Ý kiến bạn đọc
03 Tháng Mười Hai 201423:06
Khách
Bạn GS001 ngày viết càng rõ ràng . Rất hay !!!
05 Tháng Bảy 201207:00
Khách
Bài viết rất hay & rất chính xác.
14 Tháng Hai 201208:00
Khách

Nếu bài trên có vẻ khó hiểu để đọc, quí đạo hữu nên đọc bài THIỀN VÀ CHÁNH NIỆM trước tại link này:

http://hoavouu.com/D_1-2_2-219_4-21316_15-2/thien-va-chanh-niem.html
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3650)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 3703)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 3313)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 3490)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 3836)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 4048)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 8804)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4180)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5852)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 3886)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 3605)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 3271)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 4752)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 4177)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 4694)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 4247)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 3543)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 4721)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 4188)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 5320)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 4946)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 5689)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 5576)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 5629)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 3641)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 4930)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 5849)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 5377)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 4207)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 4881)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 4928)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 6320)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 5466)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 6310)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 5619)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 4728)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 5045)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 5436)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 4925)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 5150)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 6145)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 5154)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 3882)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 4274)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 4760)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 4268)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 5907)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 6492)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4386)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 8290)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 4160)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 4990)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 5793)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 6546)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 6344)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 4828)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 6025)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 5741)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 7852)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 4867)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant