Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhân Giới Sanh Định, Nhân Định Phát Tuệ

28 Tháng Tư 202209:28(Xem: 3978)
Nhân Giới Sanh Định, Nhân Định Phát Tuệ
Nhân Giới Sanh Định, Nhân Định Phát Tuệ

Thích Trung Hữu


 Nhân Giới Sanh Định, Nhân Định Phát Tuệ.jgp

Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”. Tuy vậy, không phải ai cũng hiểu rõ mối quan hệ nhân quả ấy xảy ra như thế nào. Xin được chia sẻ một ít hiểu biết về vấn đề này.

Nhân Giới sanh Định

Giới, nói một cách dễ hiểu là ngăn chặn người ta làm những điều tội lỗilỗi lầm sai trái, những điều mà khi làm người ta cảm thấy trong lòng bất an như lo lắngsợ hãi, bồn chồn hoặc mặc cảm tội lỗiTrạng thái tâm lý này có thể xảy ra khi chuẩn bị làm, trong khi làm hay sau khi làm hoặc cả ba giai đoạn. Ví dụ như một người muốn ăn trộm của ai cái gì, họ sẽ hồi hộp khi chuẩn bị làm việc đó, rằng không biết làm có thành công hay không, hay là sẽ bị phát hiện và bị bắt. Trong khi làm họ cũng hết sức hồi hộp, nhìn tới nhìn lui coi có ai để ý mình không. Và sau khi làm họ cũng tiếp tục lo sợ không yên vì sợ sẽ bị phát hiện, bị truy tìm nên luôn lẩn tránh hoặc lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác. Hơn nữa, một người làm ác hay làm những điều sai trái, họ không chỉ sợ mọi người biết mà tự trong tâm họ cũng cảm thấy không ổn. Cái cảm giác đó có khi rõ ràng để họ có thể dễ dàng nhận ra, nhưng có khi lại tiềm ẩn sâu xa trong tiềm thức. Nhưng cho dù hiển lộ hay tiềm ẩn thì mặc cảm tội lỗi vẫn còn đó, như cây kim nằm trong túi áo, như khối u trong cơ thể, chỉ chờ cơ hội là hành hạ con người.


Chuyện kể rằng, một ngôi làng nọ, có một gia đình nghèo khó bần cùng, người cha vì không có tiền, thường ban đêm lẻn vào vườn rau nhà người ta hái trộm. Hôm đó anh ta mang theo cả con trai đi cùng. Khi người cha vừa mới nhổ một cây củ cải, đứa con bỗng nhiên ở sau lưng khẽ kêu: “Cha... cha..., có người đang nhìn chúng ta kìa”. Cha của cậu kinh hãi, ngó nhìn bốn phía, hoảng hốt hỏi: “Người đó ở đâu?”. Đứa trẻ chỉ tay lên trời trả lời: “Cha xem, là mặt trăng đang nhìn chúng ta đó!”. Người cha này nghe con trai nói vậy, cảm thấy hổ thẹn về hành vi của mình nên lặng lẽ dắt tay con trai đi về nhà. Dọc đường về, anh ta thầm nghĩ: “Trộm cắp là gây nghiệp rất lớn, có lẽ ông trời từ bi, mượn miệng con trai để giúp mình tỉnh ngộ, từ nay phải sửa sai hướng thiện thôi!”.

Thật ra, không phải đợi tới khi đứa con trai lên tiếng người cha mới nhận ra và hổ thẹn về việc làm của mình. Anh ta có thể đã ý thức được điều đó từ lâu rồi, nhưng một cách âm thầm. Nói cách khác, anh không muốn đối diện và thừa nhận sự sai trái của mình nên cố tình phớt lờ tiếng gọi của lương tâm. Nhưng khi đứa con trai nói ra điều đó, anh không thể giả ngơ được nữa, không thể coi như không có chuyện gì. Đứa con trai đã nói giùm anh cái điều mà từ lâu anh không dám nghĩ tới, chỉ vì để được “yên tâm” làm việc sai trái.

Trong kinh “Đại bát Niết-bàn” thuộc Trường bộ kinh 1, Đức Phật dạy người giữ giới được năm điều lợi ích. Một trong năm điều đó là “Người giữ giới, sống theo giới luật khi đi vào hội chúng nào, hoặc Sát-đế-lỵ, hoặc Bà-la-môn, hoặc gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thần không sợ hãi, không bối rối”. Có nghĩa là người giữ giới thì dù có đi đâu ở đâu đều cảm thấy tự tin, cũng không lo người khác nói xấu mình sau lưng vì họ không làm điều gì xấu. Tục ngữ cũng có câu: “Không làm việc trái lương tâm thì nửa đêm không sợ quỷ gõ cửa”. Người ác luôn có điều ẩn khuất trong lòng, nên luôn bất an và nơm nớp lo lắng, mỗi thời mỗi khắc đều sống trong “bóng ma ám ảnh” của tội ác mà mình gây nên. Còn người lương thiện có tấm lòng rộng lớn, không có tư tâm tư lợi cho bản thân, không lừa trời, giấu đất, không toan tính hại người, nên không có gì để sợ. Trong lòng họ luôn trong sángvô tư nên thân tâm của họ đều thanh tịnh, cuộc sống bình anhạnh phúc.
Giới luật trong Phật giáo có nhiều loại từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều, từ căn bản cho đến chi li như Ngũ giớiBát quan trai giới, Sa-di giới, Tỳ-kheo giới và Bồ-tát giới. Tính chất của giới luật là “thanh lương”, tức là mát mẻ, là “biệt biệt giải thoát”, tức là giữ được giới nào thì giải thoát được giới ấy, giữ được ít thì giải thoát ít, giữ được nhiều thì giải thoát nhiều. Nói cách khác, giữ giới là làm cho thân thanh tịnh, do thân được thanh tịnh mà tâm cũng được thanh tịnh theo, hoặc chí ít cũng là tăng thượng duyên cho sự thanh tịnh của tâm. Phật tử tại gia giữ năm giới thì làm người một cách đường đường chính chính, còn người xuất gia phải giữ hàng trăm giới để làm cho thân được hoàn toàn vô cấu, không tì vết, tức là diệt trừ tất cả nguyên nhân của lo sợ và hối hận. Được như vậy thì khi tu tập các đề mục Định sẽ dễ dàng đạt được sự định tâm. Người làm ác hay phá giới tâm luôn bị giằng xé, không thể yên tâm ngồi đó tham thiền nhập định. Cho nên nếu ai đó nói rằng không cần giữ giới mà có thể tu Định được là họ nói không đúng sự thật vậy.

Nhân Định phát Tuệ

Tâm Định là tâm không còn vọng tưởng. Tâm như đất, vọng tưởng như cỏ dại, gai góc, sỏi đá. Nếu đất bị phủ đầy hay trộn lẫn những thứ này thì đất đó không thể gieo trồng hoa màu gì được. Tâm như mặt trờivọng tưởng như mây mờ che phủ ánh sáng của mặt trời. Ở mức độ bình thường, người có quá nhiều vọng tưởng hay suy nghĩ quá nhiều thứ trong đầu thì không thể tiếp thu trọn vẹn hay suy tính việc gì một cách thấu đáo, sâu sắc. Trên phương diện tu tập, người chạy theo vọng tưởng là người quên mất bản tâm, cái mà vua Trần Thái Tông gọi là “Lưỡi vướng vị ngon tai vướng tiếng/ Mắt theo hình tướng mũi theo hương” cho nên mới “Lênh đênh làm kiếp phong trần mãi/ Ngày hết quê xa vạn dặm trường”, càng chạy theo khách trần thì càng xa quê hương tự tính.


Tu thiền định là không chạy theo khách trần mà phải trở về với khu vườn tâm của mình để chăm sóc nó, để khai thác nguồn tài nguyên vô tận của tâm địaThiền sư Thái Lan Ajahn Chah nói rằng: “Chỉ có một cuốn sách đáng đọc nhất, đó là tâm của chính mình”. Và khi mà “Tâm địa nhược không” thì “Tuệ nhựt tự chiếu” vậy. Cùng ý này, Lão Tử cũng chủ trương về việc học đạo như sau: “Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn, dĩ chí vô vi”. Nghĩa là mục đích của việc học ở đời là tích lũy cho được mỗi ngày một nhiều hơn, còn việc tu đạo thì phải làm sao cho mỗi ngày một giảm bớt, ít đi. Giảm rồi lại giảm cho đến mức vô vi mới thôi. Giảm cái gì vậy? Chính là giảm đi sự hiểu biết, giảm dục vọng, giảm vọng tưởng vậy.

Khi ta nói “phát tuệ” nghĩa là trí tuệ đó không phải có được do tiếp thu từ bên ngoài mà là sự sinh khởi từ bên trong. Trong tâm của chúng sinh hàm chứa tất cả phước đức trí năng mà chỉ cần giác ngộ, khai mở là ta có thể thấu hiểu vạn pháp một cách chân thậtLục tổ Huệ Năng sau khi đại ngộ đã nhận ra tất cả vạn pháp chẳng lìa tự tánh, nên đã phát biểu rằng:
“Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp!”.
Kiến thức và trí tuệ đều là sự hiểu biết, nhưng chúng khác nhau như thế nào? Kiến thức là do học mà được, còn trí tuệ là do thiền định mà có. Sự nhận thức của kiến thức có khi sai lệch và không khách quan, còn trí tuệ thì nhìn đúng bản chất của sự vật. Kiến thức có thể đưa tới chấp thủ và phiền não còn trí tuệ dẫn tới xả ly và giải thoát. Trong kinh Tăng chi bộ, chương Mười một pháp, phẩm Y chỉĐức Phật bảo Ananda rằng: “Như vậy, này Ananda, các thiện giới có ý nghĩa không hối tiếc, có lợi ích không hối tiếc. Không hối tiếc có ý nghĩa hân hoan, có lợi ích hân hoanHân hoan có ý nghĩa hoan hỷ, có lợi ích hoan hỷHoan hỷ có ý nghĩa khinh an, có lợi ích khinh anKhinh an có ý nghĩa an lạc, có lợi ích an lạcAn lạc có ý nghĩa định, có lợi ích định. Định có ý nghĩa như thật tri kiến, có lợi ích như thật tri kiếnNhư thật tri kiến có ý nghĩa nhàm chán, có lợi ích nhàm chánNhàm chán có ý nghĩa ly tham, có lợi ích ly thamLy tham có ý nghĩa giải thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến. Như vậy, này Ananda, các thiện giới thứ lớp dẫn đến tối thượng”.

Thích Trung Hữu

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4513)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4554)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7317)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2959)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12207)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3987)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3803)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4211)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3680)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5049)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6668)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4000)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4115)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5334)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3781)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4520)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3548)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3924)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4387)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5391)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3838)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3935)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3869)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4822)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4514)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4251)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3826)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4629)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4192)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6104)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4603)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4942)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4170)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4817)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5664)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3642)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4028)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4587)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5279)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3143)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4760)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4551)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4286)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4736)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4483)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4602)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7212)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5207)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5003)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4592)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5615)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5266)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4158)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6004)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4711)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4871)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5480)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5613)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5813)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
(Xem: 4993)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant