Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh A Hàm Với Phật Giáo Nhân Gian

15 Tháng Hai 201200:00(Xem: 12086)
Kinh A Hàm Với Phật Giáo Nhân Gian


KINH A HÀM VỚI PHẬT GIÁO NHÂN GIAN

Hoằng Ấn trước tác; Không Nguyên dịch

 --- o0o ---

 

Kinh A Hàm có bốn loại, Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A HàmTăng Nhất A Hàm. Vì sao nói kinh A Hàm có quan hệ mật thiết với Phật giáo nhân gian. Từ lâu, người ta thường nghĩ rằng, kinh A Hàm thuộc giáo lý Phật giáo nguyên thủy ở các quốc gia Phật giáo Nam truyền. Nhưng kỳ thực, Phật giáo từ khi truyền vào Trung Quốc từ đời Đông Hán, thì quả vị A la hán được xem là mục đích tối hậu, đó là tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy. Ngày nay, giới Phật giáo quan niệm thế nào về tư tưởng Phật giáo phát triển và tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy? Trên thực tế, tên gọi Đại, Tiểu thừa chỉ tùy thuộc sự biến thiên của lịch sử. Khi Đức Phật còn tại thế thì không có hiện tượng này, tất cả kinh Phật đều được hình thành theo dòng chảy của lịch sử, tức là sau khi Đức Phật diệt độ, các đệ tử biên tập những lời dạy từ kim khẩu của Đức Phật mà thành. Những kinh kết tập sớm gọi là kinh điển Nguyên thủy, kinh kết tập muộn gọi là kinh điển Đại thừa. Nếu hiểu được như thế mới không bị rơi vào thiên kiến khi xem kinh A Hàm. Nguyên nhân kinh A Hàm được xem là kinh Tiểu thừa chính là sự hưng thịnh của Thiền tôngTịnh Độ tông vào thời đại Tùy Đường, đặc biệttư tưởng của Hoa NghiêmThiên Thai tông. Mấy trăm năm gần đây, tư tưởng của những tông phái này được nhiều người công nhận là do sự thành tựu của khảo chứng lịch sử. Vào thế kỷ XX, nghiên cứu học thuật của Phật giáo thế giới đối với việc tuyên dương truyền bá tư tưởng Phật Đà, đã bước vào lĩnh vực mới, nhưng người ta lại phủ định và quay mặt với tinh hoa truyền thống, vì họ cho rằng, Đức Phật là thần hay là người, cảnh giới giải thoát của Ngài ra làm sao? Giới Phật giáo ngày nay đối với kinh Phật đều có cách nhìn mới, quan điểm tu hành cũng trở nên đổi mới khác lạ, chúng ta sẽ lần lượt thảo luận. Trên đây là địa vị lịch sửý nghĩa kinh A Hàm trên phương diện lịch sử văn hiến. Tiếp theo là khảo cứu kết cấu phong cách của kinh A Hàm, để tìm hiểu đặc tính Phật giáo nhân gian.

Kết cấu kinh điển giữa Đại, Tiểu thừa Phật giáo không giống nhau. Kinh điển Tiểu thừa thường thuyết minh rõ địa điểm, tên người, thời gian; kinh Đại thừa thường không đầy đủ như kinh điển Nguyên thủy. Đặc biệt kinh A Hàm thuyết minh rõ địa điểm, đối tượng, do vậy có thể thấy rõ được tính cách nhân gian của kinh A Hàm. Trong Diệu Vân tập, ngài Ấn Thuận nói rằng: "Kinh điển Phật giáo Đại thừa là nghệ thuật hóa, kinh điển Tiểu thừa Phật giáo là khoa học hóa". Cảnh giới tôn giáo thường là nơi ký thác tâm linh của tín đồ, ở trong môi trường hiện thực nhân sanh có lẽ không thể tồn tại, nhưng trong thế giới tâm linh của tín đồ, thì đó là khả năng chân thật, chẳng hạn như vào cảnh giới thiền định thì có thể thấy được trong mười phương thế giớiĐức Phật đang thuyết pháp, nhưng người chưa đạt cảnh giới này thì không thể tin nổi. Cho nên không thể vì nghệ thuật hóa của Đại thừa mà phủ định thế giới đó. Vì thế, nếu đọc kinh điển Đại thừa, cần phải đọc bằng tất cả tâm linhtrí tuệ, mới có thể lĩnh hội được những bí yếu sâu xa của kinh. Tuy nhiên đối với cảnh giới miêu tả thì không nên quá chấp trước.

Kinh A Hàm thường mang màu sắc sống động của cuộc sống đời thường, giải quyết triệt để những vấn đề như vũ trụ lớn bao nhiêu, bắt đầu và kết cục của nó như thế nào. Đối với vấn đề thuộc hình nhi thượng này, Phật giáo trả lờivô ký, tức là không có đáp án, do đây có thể hiểu được tính chất vô hình nhi thượng học của giáo lý Nguyên thủy. Nhưng khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, lại ảnh hưởng Huyền học (Dịch, Lão, Trang), cho nên Phật học Trung Quốc lại mang tính chất Huyền học hóa, là một Phật giáo Huyền học hóa thoát ly Phật giáo Nguyên thủy. Một sự thật đặc biệt được xác nhận trong kinh A Hàm là thường bàn về chuyện tu hành ngay trên thực tế cá nhân. Dù người có thần thông quảng đại cũng không thể đoạn tận phiền não, và người đoạn tận phiền não cũng không nhất địnhthần thông. Cho nên không thể xem việc có hay không có thần thông để phán đoán mức độ thực chứng của nội tâm. Đặc điểm của Phật giáo Nguyên thủy là nhắm thẳng vào thân tâm của con người để thảo luận vấn đề, mà thân tâm chính là nội dung của sắc thọ tưởng hành và thức. Đây là những giai đoạn tu học quan trọng của người xuất gia. Có thể thấy rằng lúc bấy giờ Đức Phật hóa độ bất kỳ đối tượng nào cũng đều khế hợp với căn cơ, không nói những chuyện hư vô xa vời thực tế mà mang màu sắc của nhân gian đời thường và quá đỗi thân thiết.

Kinh A Hàm nói rằng, ba pháp mà không đoạn thì không thể nào thoát ly sinh lão bệnh tử, ba pháp đó là tham dục, sân nhuếngu si; muốn đoạn tham sân si thì trước hết phải đoạn thân kiến, giới cấm thủ kiến. Đây là tinh thần tiệm tiến trên bước đường tu học.

Tam chướng trong nguyện tiêu tam chướng chư phiền não là chỉ hoặc nghiệp khổ, trước tiên cần phải đoạn hoặc (thân kiến, vô minh hoặc), mới có thể tiêu trừ nghiệp khổ, phương pháp là tu duyên khởi quán, duyên khởi là quan hệ giữa điều kiện với điều kiện, sự thành bại tụ tán của đời người đều tùy thuộc vào nhân duyên. Tại đây, cần hiểu rằng, những thí dụ trong kinh A Hàm là nhằm thuyết minh bản hoài chân chính của Phật. Tri kiến của Phật rất thích ứng với văn hóa Ấn Độ, chẳng hạn như từ kinh A Hàm có thể biết được rằng, người xuất gia ngày xưa cũng đã trì mật chú, nguyên nhân là do Ấn Độ thuộc vùng nhiệt đới, bấy giờ nhiều chúng xuất gia đang trong lúc ngồi thiền lại bị rắn độc cắn, do vậy mà Đức Phật dạy rằng, trước khi tọa thiền, cần phải trì chú để tránh khỏi rắn cắn; lại kiết hạ an cư vốn là pháp tu của ngoại đạo, chúng xuất gia đi khất thực nhằm mùa mưa thường bị bùn đất lấm thân, vả lại mùa mưa thì sanh nhiều trùng, do đó đi lại nhiều thì rất dễ đạp chết côn trùng, khiến thế gian cơ hiềm, do vậy Đức Phật mới chế định pháp kiết hạ an cư cho người xuất gia.

Đọc trực tiếp kinh A Hàm thì không dễ gì hiểu những ẩn ý thâm sâu, vì vậy muốn thâm nhập Phật pháp, thì cần phải giác ngộ những đạo lý này. Lại như Tứ Thánh đế, Mười hai nhân duyên, Tam pháp ấn đều là những tư tưởng căn bản của Phật giáo. Nếu muốn nghiên cứu Phật giáo Nguyên thủy thì cần phải chú ý những biểu hiện hành vi nhân vật trên chiều dài hoạt động lịch sử, nếu được vậy thì đọc kinh A Hàm mới không bị thiên kiến lệch lạc. Cho nên không luận người xuất gia chứng quả hay không chứng quả, vấn đề tùy duyên độ chúng vẫn rất được đề cao. Kinh A Hàm đề cập đến những vị Đại Bồ tát. Có thể thấy những quan niệm này có mặt trong kinh điển Phật giáo ngay từ thời kỳ đầu. Do Đức Phật xuất hiệnẤn Độ, lúc bấy giờ tư tưởng giải thoát của Áo nghĩa thư của Bà La Môn giáoyếm thế, chúng xuất gia đệ tử Phật đa phần cũng xuất thân từ những Sa môn yếm thế, nhưng một số Đại Tôn giả như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đã chứng quả A la hán, họ thường du hành trong nhân gian, giảng kinh, thuyết pháp. Cho nên khảo chứng những nhân vật trong kinh A Hàm có thể phát hiện được tinh thầncông hạnh sâu dày của một số Bồ tát, nếu cho đó không phải là tinh thần Đại thừa là một sai lầm. Chúng ta cần phải thay đổi những cách nhìn đối với kinh A Hàm sau khi ảnh hưởng Phán giáo của thời đại Tùy Đường. Ngoài ra, cảnh giới sơ thiền, nhị thiền như thế nào, kinh A Hàm đều có trình bày tường tận chi li và toàn diện.

Kinh A Hàm khi bàn đến những khái niệm như cảnh giới tu hành, hiện tượng, quán niệm đều trình bày một cách rõ ràng, chẳng hạn như sắc tức là tứ đại, đất nước gió lửa, bốn uẩn còn lại cũng phân tích rõ ràng. Theo Phật giáo, quá trình tu tập phải là quá trình dấn thân trên lộ trình Trung đạo, là tinh thần của giác ngộ. Giác có nghĩa là không trốn chạy bất kỳ cảnh giới nào, cho nên kinh A Hàm bảo chúng ta là phải nhận thức phiền não, như thật liễu tri, Đức Phật đã dùng sắc làm thí dụ, sự sanh khởi, sự đoạn diệt của sắc đều phải như thật tri, cũng chính là chỉ ra trong cảnh giớithống khổ hay sung sướng, thì luôn phải liễu tri bản chất của chúng để đối trịchuyển hóa. Trong kinh A Hàm, Đức Phật đã chỉ dạy các đệ tử không nên để tâm rong ruổi đến những cảnh giới viễn vông xa rời thực tế. Phật pháp là những gì thân thiếtchúng sanh có thể cảm nhận được ngay trong cuộc sống, là những gì vốn gắn liền với nhận thức của con người. Do đây có thể nói đó là màu sắc nhân gian của Phật giáo. Điều đáng tiếc là trong quá trình lịch sử phát triển của Phật giáo, đặc biệt là sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo lại ảnh hưởng Huyền học, cho nên Phật giáo Trung Quốc mang tinh thần Huyền học hóa.

Niết bàncảnh giới giải thoát. Kinh A Hàm chép rằng, có người hỏi, làm sao biết có Niết bàn, làm sao để chứng minh, bằng vào đâu mà Đức Phật nói Niết bànchân thật. Để giải quyết vấn đề này, Đức Phật từ quan điểm Vô thường, Vô ngã, Khổ và Không hướng dẫn họ tự tư duy. Đối với những người không tin Niết bàn, Đức Phật trước phân tích nhân quả thế gian, kế đến mới phân tích nhân quả xuất thế gian. Do thế gian thường chứa nhóm các nhân quả khổ, cho nên cứ mãi lang thang bất định trong chuỗi dài sanh tử. Xuất thế gian thường chứa nhóm những nhân lành, cho nên có khả năng vĩnh viễn đóng bít cửa ngõ sanh tử. Nghiên cứu nhân quả thế gianxuất thế gian chính là đứng trên lập trường duyên khởi. Sự xuất hiện của mỗi cá thể trên thế gian này chính là sự có mặt của tám khổ. Kinh A Hàm đã đề cập đến những thống khổthân tâm con người thường phải đối diện.

Từ quan điểm giải thoát của tôn giáo mà nói, nhân loại càng ngày càng đọa lạc, đạo đức ngày càng bị mai một. Quan niệm về giá trị của người xưa là quan niệm làm sao để đạt được sự vĩnh hằng bất hủ. Triết học Hy Lạp cũng có tư tưởng truy cầu sự vĩnh hằng, nhưng cuối cùng lại có thể dùng biện pháp tư duy để giải quyết vấn đề sinh mạng. Tầng lớp trí thức trong thời đại Xuân Thu Chiến Quốc cũng thiết lập tư tưởng triết học an thân lập mệnh và khẳng định sự bất hủ của sinh mạng. Những thành tựu của khoa học cận đại mà người ta nói là có thể giải quyết được tất cả, cũng chỉ là một khoa học phiến diện. Nhưng nhân văn học, tôn giáo học mà khoa học đề cập là giá trị trung lập, tức là không bàn luận về ý nghĩa sinh mạng. Trên thực tế, khoa học trước mắt vô phương tiếp xúc những cảnh giới của tôn giáo.

Kinh A Hàm có rất nhiều quan niệm về sinh tử, nhưng hôm nay chúng ta tốt nhất là đem ánh mắt đồng tình để nhìn quan niệm sinh mạng của người cổ Ấn Độ trong hơn hai ngàn năm về trước, bởi vì quan niệm của họ là truy cầu sự bất hủ vĩnh hằng của sinh mạng. Trên cơ bản, Phật giáo đối với sự giải thoát sinh mạng vẫn giống những tôn giáo khác là cùng đứng trên một xuất phát điểm, cho rằng giải thoát thống khổcảnh giới hoàn thiện của kiếp người, vì thế luôn đề cập vấn đề liễu sanh thoát tử, nhưng điểm khác nhau giữa Phật giáo với những tôn giáo khác là vấn đề điều kiệnphương pháp. Phật pháp khẳng định cõi Ta bà nơi mà chúng ta đang ở là điều kiện tốt nhất để thực hành pháp, mà không cần phải tìm cầu ở thiên đường viển vông nào cả. Những phương pháp tu hành trong kinh A Hàm chính là khẳng định nhân gian tính, đồng thời nhấn mạnh sự quý báu của việc được làm thân người, vì người là nhịp cầu giữa mê và ngộ, giữa chúng sanh và Phật.

Kinh Tạp A Hàm chép rằng, Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Phật làm thế nào để đạt được cảnh giới thiền định tam muội mà các bậc Thánh chứng ngộ? Đức Phật đáp rằng, có bảy phép tu chân chánh là căn bản của các bậc Thánh đắc được thiền tam muội, tức là sau khi đạt được chánh kiến, chánh tri, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiệnchánh niệm, mới có thể nhập vào chánh định.

Đọc kinh A Hàm giúp chúng ta cảm nhận được tính chân thật của Phật giáo nhân gian, bởi vì địa điểm nhân vật mà kinh chép đều gắn liền với những sự thật lịch sử, Đức Phật mỗi ngày đều trước y trì bát trong nhân gian khất thực độ nhựt, đó là Đức Phật của nhân cách hóa. Kinh A Hàm còn chép rằng: "Đức Thế Tôn phải chăng là thay trời hành đạo?". Do đây có thể chứng minh kinh A Hàm khẳng định Đức Phật xuất hiệnnhân gian, chư Phật chẳng phải ở trên trời thành Phật. Nhân gian cuối cùng là nơi thích hợp để tu hành hơn cảnh giới ở các cõi trời.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11083)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14370)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11541)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12718)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12331)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11093)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10970)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13448)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11883)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13757)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11984)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11245)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12306)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12465)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20672)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12488)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12514)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11769)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11656)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22499)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13648)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29802)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11607)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16823)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12064)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16920)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12155)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 18023)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12720)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13239)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14830)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22744)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10648)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14122)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13924)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13777)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13939)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13993)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14906)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13934)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18489)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22891)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15466)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17392)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22489)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14332)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12696)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11247)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17864)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13282)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13190)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18881)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17253)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13592)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 13003)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14785)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14768)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15955)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13596)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27554)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant