Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Vãng Sanh

18 Tháng Hai 201200:00(Xem: 23461)
Ý Nghĩa Vãng Sanh

Ý NGHĨA VÃNG SANH



Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế. Kiếp nhân sinh đầy ô trượctai nạn: mưa gió trái mùa, bão lụt, động đất, sóng thần, hạn hán, biến đổi khí hậu gọi là kiếp trược.

Con người thì luôn bị bản năng dục vọng chi phối điều động, luôn bất an, bức xúc, từ chuyện làm ăn, tạo dựng địa vị xã hội cho đến tình nghĩa vợ chồng con cái đều nóng bức như cái lò lửa, gọi là phiền não trược. Nhận thức của con người thì đầy những sai lầm về những giá trị sống, coi trọng tiền tài hơn tình nghĩa, vật chất hơn tinh thần, lấy sự lừa đảo dối trá như là lẽ sống được nhiều người chấp nhận, coi đó là khôn ngoan, thông minh, biết sống…, gọi là kiến trược hay văn hóa trược. Mạng sống con người luôn bị đe dọa bởi tai ương hoạn nạn, bệnh tật nan y, môi trường sống trở thành tác nhân nguy cơ của sinh mệnh, tuổi thọ không cao, gọi là mạng trược. Con người xã hội cũng đầy phức tạp bất an, ích kỷ hại nhân đến nỗi người xưa đúc kết lại như là một thái độ sống đừng tin tưởng vào một ai:"Dò sông, dò biển dễ dò/Nào ai bẻ thước mà đo lòng người", đó gọi là chúng sanh trược. Sự xấu ác hiện hữu trong mọi góc cạnh của cuộc sống nên kinh Phật gọi thế giới này là ngũ trược ác thế.

Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy các Phật tử cần có cái nhìn rõ về bản chất của đời sống. Ngài dạy: "Nhìn đời như bọt nước/Nhìn đời như ảo ảnh/Hãy nhìn đời như vậy/Thần chết không bắt gặp" (PC,170). Đây là một phương pháp quán chiếu về thực chất của cuộc đời để vượt qua thế giới trược uế này, cách nhìn thế giớiô trược trong kinh A Di Đà cũng có tác dụng "Thần chết không bắt gặp" như vậy. Sự nhận thức đưa đến thấy rõ sự thật bao giờ cũng có tác dụng giải thoát khỏi các ảo ảnh. Thông thường ta sợ hãi vì ta không thấy rõ, khi thấy rõ rồi thì không còn sợ nữa, giống như khi ở trong một căn phòng tối, ta cảm thấy sợ hãi nhưng khi bật đèn sáng thì ta không còn sợ nữa, lý do đơn giản là vì ta thấy rõ sự vật nên nỗi sợ tan biến. Cũng vậy, khi quán chiếu về thế giới nếu thấy rõ thực chất của nó ta sẽ thoát khỏi sợ hãi, bất an. Không còn sợ cái chết nữa thì gọi là "Thần chết không bắt gặp". Ta không sợ chết do: Một là, biết rõ sự chết là quy luật tất yếu không ai tránh được, đây là một định luật, sợ cũng vô ích nên không sợ nữa mà có thể sống chung với chúng. Hai là, sự tham muốn bám víu vào đời sống không còn mạnh nên thoát ra mọi trói buộc của tham lam, chấp thủ; tâm đã không tham thì thoát khỏi vòng sống chết. Tiêu điểm của vấn đềnhận thức đúng, còn gọi là tuệ quán. Khi thấy rõ thì không bị dao động, khi tâm không còn bị tác động bởi những thăng trầm của cuộc đời thì tâm đạt được bình an, tâm bình an thì thế giới bình an. Cách dùng tuệ quán để vượt qua sống chết có thể gọi đó là vãng sanh Tịnh độ theo đạo lý "Tâm tịnh độ tịnh" trong kinh Duy Ma.

Công thức giải thoát trong Kinh tạng Nguyên thủy, thường đề cập như sau: Biết rõ đưa đến nhàm chán, nhàm chán đưa đến ly tham, ly tham đưa đến đoạn diệt, đoạn diệt đưa đến Niết-bàn (Kinh Trung Bộ). Pháp môn Tịnh độ cũng có phương thức để đạt được vãng sanh Tịnh độ tương tựbước đầu: Trước hết, phải có cái nhìn về cõi Ta bà là uế trược và nhàm chán chúng, sau đó hướng tâm về thế giới trong lành mát mẻ của cõi Tịnh độ, tiếp theophát nguyện tha thiết nương vào nguyện lực của Đức Phật A Di Đà để thoát khỏi Ta bà, vãng sanh Tịnh độ. Căn bản của vấn đềgiác ngộ về bản chất của đời sống, chính sự giác ngộ ấy làm cho lòng tin được tăng trưởngtâm nguyện của hành giả tương ứng với nguyện lực của Phật, đây là một công trình lớn lao và khó nhọc; vì vậy, không thể nói hành giả Tịnh độ hoàn toàn nương vào tha lực. Sự khác biệt về con đường tu tập trong đạo Phật không phải là sự khác biệt căn bản của lộ trình mà là sự khác biệt về xu hướng tâm thức hay còn gọi là sự khác biệt về căn tánh của chúng sanh.

Cõi Tây phương ở đâu? Trong một tác phẩm nghi lễ Phật giáo có hai bài kệ nói về Tịnh độ ở đâu, như sau:

1- "Mạc đạo Tây phương cận/Tây phương thập vạn trình/Di Đà thùy tiếp dẫn/Vô tử diệc vô sanh". Tạm dịch: Chớ bảo cõi Tây phương là gần, hành trình về Tây phương xa xôi đến mười vạn dặm đường. Đức Phật A Di Đà thương mà tiếp dẫn mới giải thoát khỏi tử sanh.

2- "Mạc đạo Tây phương viễn/Tây phương tại mục tiền/Thủy lưu quy đại hải/Nguyệt lạc bất ly thiên". Tạm dịch: Chớ bảo cõi Tây phương xa xôi, cõi Tây phương ở ngay trước mặt. Như nước chảy về biển cả, như trăng lặn không ra khỏi bầu trời.

Bài thứ nhất, nói lộ trình về Tịnh độ rất xa, con số tượng trưng là mười vạn dặm, cần được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn để đạt đến chốn không tử không sanh. Như vậy, yếu tố chính để về Tây phương là nhờ Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn. Bài kệ này nhấn mạnh về tha lực. Có sách lý giải rằng, đi về Tây phương phải trải qua 10 vạn dặm đường là tượng trưng cho 10 căn bản phiền não, mười vạn là nói đến những biểu hiện vi tế của 10 phiền não trên. Ý nghĩa là, khi chưa đi qua 10 căn bản phiền não thì Phật chưa tiếp dẫn được, phải vượt qua 10 vạn dặm phiền não thì cảm ứng được với Phật; hoặc có Phật tiếp dẫn thì mới đi qua được 10 căn bản phiền não, cả hai nghĩa đều đúng. Nhưng nghĩa thứ hai khiến người ta quan tâm hơn, vì phiền não quá nhiều nên để vượt qua chúng đòi hỏi nhiều công phuthời gian, chưa kể chuyện bị lầm đường lạc lối, được Đức Phật tiếp dẫn đi và được sống trong môi trường thanh tịnh thì mới mau chóng và không lầm lạc, dễ dàng và chắc chắn.

Bài thứ hai, nói lộ trình về Tịnh độ không xa, thậm chí là rất gần, ngay trước mắt. Bởi lẽ, cõi Tây phương chính là cõi tâm của mình, cõi tâm ở đây chỉ cho bản tâm thanh tịnh của mỗi chúng sanh. Trăm sông đều về biển cả, sông thì nhiều và hẹp nhưng nơi có thể dung nhiếp tất cả là biển rộng mênh mông, cũng như trăng mọc rồi trăng lặn, dù mọc hay lặn trăng cũng không thoát khỏi bầu trời bao la. Biển cả mênh mông hay bầu trời bao la chính là cõi tâm thanh tịnh, là bản thể an bình của vạn loại chúng sinh. Phật cũng ở tâm, chúng sanh cũng ở tâm, có sự khác biệt về thể tướng nhưng không có sự khác biệt về thể tánh. Vậy, Tây phương chính là tâm thanh tịnh của mỗi người.

Nói Phật tại tâm hay nói Tâm tịnh độ tịnh là nói về lý lẽ, nhưng làm cho Phật hiển lộ ở trong tâm hay tâm được thanh tịnh để có cảnh tịnh, cần phảicông phu tu tập lâu dài. Con đường tu tập ấy có hai yếu tố cần thiết là: đúng chân lýthiện tri thức trợ duyên. Điều này, không chỉ đúng trên con đường đạo mà đúng cả trong cuộc sống đời thường, nếu ta hoạt động mà không phù hợp với quy luật vận động thì sẽ thất bại và nếu hoạt động mà không có môi trường cũng như con người trợ giúp thì cũng thất bại. Hai bài kệ đều đúng vì nói lên hai yếu tố "lý" và "cơ" ở trên. Tâm phải tịnh thì cảnh mới tịnh là đúng chân lý, tịnh hay không tịnh do tâm. Nhưng nếu không có môi trường tu tập thuận lợi thì sự tịnh tâm khó bền vững, con người luôn có tính xã hội nên yếu tố tha lực đóng vai trò rất lớn trong vấn đề hình thành nhân cách và định hướng cuộc đời. Trên con đường tu tập ngoài nỗ lực cá nhân, nếu được Đức Phậtcộng đồng Thánh chúng trợ duyên thì sự thành tựuchắc chắn.

Tóm lại, vãng sanh về Tịnh độ cần nhất tâm và có sự tiếp dẫn; khi có nhất tâm thì có cảm ứng tiếp dẫn của Phật, như người xưa thường nói: "Ái bất trọng bất sanh Ta bà/Niệm bất nhất bất sanh Tịnh độ", cả hai yếu tố thực chất chỉ là một thôi. Mỗi người đều có khả năng làm hiển lộ Đức Phật trong tâm khi ta nhớ Phật, hướng tâm về Phật trong mọi hoạt động của mình. Và ý nghĩa của vãng sanh chính là đi qua cuộc sống ô nhiễm, sống với cuộc sống thanh tịnh an vui, từ ác thế chuyển hóa thành thiện thế bằng cách tịnh hóa cõi tâm.

Thích Viên Giác
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11053)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14349)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11507)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12682)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12284)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11060)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10942)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13404)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11844)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13717)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11947)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11211)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12271)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12443)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20647)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12458)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12487)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11756)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11635)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22465)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13615)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29755)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11581)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16799)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12041)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16895)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12131)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17984)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12692)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13208)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14804)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22704)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10622)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14094)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13904)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13752)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13913)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13971)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14866)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13904)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18461)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22859)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15444)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17359)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22439)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14297)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12653)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11222)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17817)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13244)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13153)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18844)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17211)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13555)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12968)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14744)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14728)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15919)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13556)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27493)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant