Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tà áo Cung Trời Tushita - Truyền Thuyết Về Cuộc Đời Của Đại Luận sư Vô Trước

26 Tháng Chín 201000:00(Xem: 22434)
Tà áo Cung Trời Tushita - Truyền Thuyết Về Cuộc Đời Của Đại Luận sư Vô Trước

Chúng ta biết rằng, trường phái Duy Thức Học (Vijnànavàda) Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỷ thứ V.TL; và một trong những người được xem là Tổ sư của trường phái này là Ngài Vô Trước (anh em cùng mẹ khác cha với Ngài Thế Thân), cả hai đều là Đại luận sư của trường phái triết học Duy Thức, một trường phái triết học đặc thù của Phật giáo mà tầm vóc và sự ảnh hưởng của nó, về mặt lịch sử, không thua kém gì dòng triết học Trung Quán của Ngài Long Thọ (Nagàrjuna). Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA, nguyên bản tiếng Tây Tạng của CANG SKYA. YESHES BSTAN PAI' I SGRON ME, bản dịch Anh ngữ của JOE WILSON.

Phần I . Kệ văn

Trong Manjushri Root Tantra (Manjushrimlakapa) truyền tụng rằng, Đức Thế Tôn trước khi vào diệt độ, Ngài đã cho biết trước rằng, 900 năm sau, sẽ có một Đại sỹ ra đời xiển dương Luận tạng, tên là Asanga. Bài kệ tiên đoán đó được ghi lại nguyên văn như sau:

"Chín trăm năm sau có một người tăng sỹ,
Vị ấy tên là Asanga,
Ngài sẽ chuyên chú vào giáo nghĩa của luận thư
Và sẽ khéo biện biệt giải thuyết.
Với biện tài vô ngại,
Vị thầy của thế gian,
Sẽ có thiên tư về luận thuyết,
Sự tựu thành của thông tuệ này
Sẽ đến từ sức thần của Mạn đà la-
Một vị nữ sứ giả của Sla;
Thông qua năng lực này mà thiện tâm trồi dậy;
Ngài sẽ tập hợp các giáo nghiã trọng yếu của luận thư.
Thọ mạng của Ngài sẽ kéo dài một trăm năm mươi năm,
{Rồi sau đó} khi thân Ngài tan rã;
Nơi Thiên cung, Ngài lại trở về;
Với niềm phúc lạc vô biên,
Ngài dạo chơi trong vòng hiện hữu.
cuối cùng, Đại sỹ sẽ chứng ngộ tuệ giác vô thượng".

Nguyên tác tiếng Tây Tạng :

Thogs Med Ces Bya'i Dge Slong Ni
Bstan Bcos De Ni Don La Mkhas
Mdo Sde Nges Don Drang Ba'i Don
Rnam Pa Mang * Po Rab Tu 'Byed
'Jig Rten Rig Pa Ston Bdag Nyid
Gzung 'Byed Ngang Tshul Can Du 'Gyur
De Yi Rig Pa Grub Pa Ni
Sa La'i Pho Nya Mo Zhes Brjod
De Yi * Sngags Kyi Mthu Yis Ni
Blo Ni Bzang Po Skye Bar 'Gyur
Bstan Pa Yun Ring * Gnas Bya'i Phyir
Mdo Yi De Nyid Don Sdud Byed
Lo Ni Brgya Dang Lnga Bcur 'Tsho
De Lus Zhig Nas Lha Yul 'Gro
'Khor Ba Rnams Su 'Khor Ba Na
Yun Ring Bde * Ba Rjes Myong Nas
Bdag Nyid Chen Po Mthar Gyis Te
Byang Chub 'Thob Par 'Gyur * Ba Yin
Zhes Gsungs Pa'o*

Bản dịch Tiếng Anh:

[When nine hundred years have passed,]
A monk named Asanga
Will be expert in the meaning of the treatises
And will in many ways discriminate
The sủtras of definitive and interpretable import.
By disposition a teacher of worldly knowledge,
He will have a nature of explaining the texts.
The achievement of the knowledge for that
Will come through the power of the mantra
Of she called Lady Messenger of Sâla;
Through its power good mind will arise.
In order that the teaching might long remain
He will condense the essential meaning of the sutras.
He will live one hundred and fifty years
And, his body disintegrating,
will go to a country of the gods.
Having long experienced bliss
Travelling in cyclic existence,
This great being will finally attain enlightenment.

Phần II. Giai thoại

Truyện kể rằng, sau ba lần nồi dậy của các nhà tư tưởng tiến bộ (abhidharma) thời đó tại Ấn Độ, lúc bấy giờ,có một người đàn bà đức hạnh phi thường thuộc dòng Bà la môn tên là Tịnh Đức (Gsal Ba'I Tshulkhrims). Bà nghĩ rằng, chánh pháp đã đến hồi suy vong do sự lạm thuyết của các học phái; nhưng ta, mang phận đàn bà, làm sao có thể xiển dương "giáo nghĩa thư" để bảo vệ chánh pháp. Suy nghĩ như thế, bà quyết định dùng sinh thức tuệ giác của mình để truyền cho con trai. Sau khi quyết định, bà đã lấy một người đàn ông dòng Kshatriya và hạ sinh Vô Trước. Sau đó, bà lấy một tu sỹ Bà la môn (brahmin) và hạ sinh đứa con thứ hai là Thế Thân. Trong suốt thời gian sinh dưỡng hai người con, bà không ngừng rèn luyện tâm thức chúng theo ý đồ của bà. Khi hai người con trưởng thành, chúng hỏi bà rằng:

- Thưa mẹ, cha của chúng con thuộc hạng người nào, và chúng con phải chọn nghề gì để nối nghiệp cha?

-Bà trả lời : Ta sinh dưỡng các con không phải để nối nghiệp cha, mà để học đạotruyền đạo.

Sau đó, Thế Thân đã đến Kashmir học đạo với Thầy Samghabhadra. Còn VôTrước thì vào tu kín trong động ở núi Chân Chim để tìm Thầy Maitreya học đạo. Suốt ba năm tu luyện trong động, nhưng Vô Trước không hề thấy được một dấu hiệu khả quan nào, và điều đó đã làm cho Ngài chán nản. Suy nghĩ như thế, Ngài vội bỏ hang động ra đi. Khi vừa bước ra, Ngài liền gặp một ông già đang mài thanh sắt lớn làm kim. Ngài hỏi: Ông làm cái gì vậy? Ông lão đáp kệ trả lời:

"Khi một người tu tập, rèn luyện nội tâm,
Thì không có điều gì mà không thành tựu,
Cho dù núi non có trở thành các bụi,
Sức mạnh của tâm thức sẽ vượt qua tất cả".

Nghe xong bài kệ, tâm Ngài trở nên tươi tỉnh, phấn chấn, và Ngài quyết định trở lại hang động để tu tập. Thế rồi, ba năm trôi qua, Ngài cũng không tìm thấy được điều gì, trong lòng buồn phiền, Ngài lại bỏ hang động ra đi. Lúc ấy Ngài chợt thấy ảnh tượng của những giọt nước đang xói mòn vách đá trong hang động, bỗng dưng tâm Ngài bừng tỉnh; rồi Ngài trở lại hang tu tập. Một lần nữa, ba năm lại trôi qua, giờ đây trước mắt Ngài đầy dẫy nỗi ưu phiền, Thầy Maitreya vẫn biền biệt tung tích. Ngài bèn bỏ hang động ra đi. Lúc ấy, Ngài lại thấy ảnh tượng của một vách đá bị xói mòn bởi những cánh chim bay, tâm thức Ngài bỗng dưng định tỉnh, và quyết chí trở lại hang đá tu tập. Thế rồi, ba năm nữa lại trôi qua, buồn phiền và chán nản lại kéo về trong tâm thức, rồi Ngài lại từ giã ra đi. Nhưng lần này, khi vừa bước ra khỏi hang đá, Ngài lại gặp một con chó sói tội nghiệp đang nằm dài, quằn quại. Phần nửa thân sau của nó thì đang lở lói bởi sự gặm nhắm của côn trùng, phần nữa thân trước của nó thì phều phào rên rỉ. Nhìn thấy cảnh đó bỗng nhiên tình thương thống thiết của Ngài trào dâng một cách phi thường; và Ngài bèn tìm cách cứu giúp nó. Lúc đó, Ngài nghĩ rằng, ta nên cắt bớt thịt của mình, rồi dùng nó để dời những côn trùng đang gặm nhắm trên thân con chó sói tội nghiệp này. Ngài liền đi mượn một con dao và tự tay cắt thịt của Ngài. Thịt đã cắt xong, nhưng vì sợ rằng, nếu lấy tay mà bắt những côn trùng thì sẽ làm chúng chết, và làm cho con chó sói càng đau đớn thêm. Đắn đo suy nghĩ một lúc, Ngài quyết định dùng chính cái lưỡi của mình để liếm những côn trùng ra khỏi những chỗ bị lở trên thân con chó sói. Trong lúc Ngài vừa liếm vào vết lở, thì bỗng dưng Bồ Tát Maitreya (Di Lạc) xuất hiện.

-Vô Trước liền hỏi:

"Con đã tu tập qúa lâu trong hang đá để chờ Ngài, nhưng tại sao không hề thấy một dấu hiệu nào của Ngài?"

-Bồ Tát đáp:

"Ta đã ở trong đó từ lúc ban đầu, nhưng do tâm thức của ngươi bị ngăn che bởi các dục vọng, ưu phiền nên ngươi không nhìn thấy ta đó thôi. Nay do ngươi phát khởi một tình thương vô bờ nên mọi chướng ngại trong tâm thức của ngươi đã băng tiêu, vì thế mà ngươi thấy ta".

Bấy giờ Vô Trước cầu xin Bồ Tát truyền pháp tu hành, Bồ Tát bảo Vô Trước hãy nắm lấy tà áo của Ngài, rồi họ cùng bay lên cung trời Tushita (Đâu Suất). Trên cung điện nhà trời, Vô Trước ở lại một buổi sáng để học đạo, lúc trở về trần gian mới hay rằng, mình đã ở trên cung trời 53 năm rồi.2

Trên cung trời Tushita, Bồ Tát Maitreya đã truyền tâm pháp toàn thiện cho Vô Trước và năm phần giáo3, mà sau này Ngài đem về truyền bá ở trần gian.

Phần III. Kệ Tán

Tôi kính lễ Đại sỹ Vô Trước
Người cứu độ trần gian,
Đã tiếp nhận nguồn mạch diệu âm từ dòng thánh thiện
Thúc dậy từ sức mạnh của suối nguồn đại định,
Dòng suối nguồn (giáo nghĩa) thiêng liêng
Tuôn chảy từ miệng của Bồ tát Maitreya tôn quý.

Nguyên bản Tiếng Anh:

I bow down to he, called Asanga who,
in order to help all the world,
Received with the vessel of listening,
the stream of nectar
Drawn by the power of the meditative stabilization
of the Stream of Doctrine- A stream of nectar poured from the vessel [whose] mouth [was] the noble Maitreya.

* * *

1 Thời kỳ Phật giáo Luận thư, xem Tâm Lý Học Phật Giáo, Thích Tâm Thiện, NXB.Tp.HCM, 1998

2 Trong chú thích bản cổ - Luận thư của Asanga ghi chú rằng, "một buổi sáng (hôm đó) trên cung điện nhà trời bằng sáu tháng ở trần gian.

3 Năm phần giáo: nguyên bản tiếng Tây Tạng gồm có: MDO SDE RGYAN.P5521,MNGON RTOGS RGYAN.P5184,DBUS MTHA'RNAM 'BYED.P5522,CHOS DANG CHOS NYID RNAM 'BYED.P5523,RGYUD BLA MA.P5525.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1182)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1651)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1583)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1498)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1477)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1336)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1390)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1716)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1981)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1096)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2035)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1478)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1564)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1394)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2917)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1379)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1412)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1734)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1685)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1636)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1480)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2646)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1609)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1615)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1409)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1428)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1572)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1449)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1438)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1523)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2206)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1555)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1516)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1632)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1848)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1540)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1421)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1677)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1425)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1719)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2394)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1478)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1966)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1685)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1765)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1624)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1958)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1690)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1445)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1735)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1586)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1556)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1340)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1256)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1303)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant