Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chân Như Nhất Thừa

30 Tháng Mười Hai 202210:39(Xem: 1425)
Chân Như Nhất Thừa

Chân Như Nhất Thừa

Nguyễn Thế Đăng

hinh phat 13

 

1/ Không có gì thối chuyển trong Chân Như

Tiếp theo, trong phần cuối của phẩm Đại Như, kinh vẫn tiếp tục khai thị về Chân Như ở một cấp độ tinh tế hơn, đòi hỏi người nghe một mức độ Văn Tư Tu cao hơn, trực giác và trí huệ sâu sắc hơn, sáng tỏ hơn.

Các khai thị này có tính cách trực tiếp hơn, đốn giáo hơn, trực chỉ hơn, như trong các cấp bậc cao của Đại Ấn (Mahamudra), Đại Toàn Thiện (Maha AtiDzogchen), Thiền tông… Chẳng hạn khi đức Phật nói “Vô thượng Giác ngộ rất khó được”, thì ngài Tu Bồ Đề lại thưa với đức Phật rằng “Vô thượng Giác ngộ rất dễ được, vì…”

 

Lúc bấy giờ, chư Thiên cõi Sắc, cõi Dục bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vô thượng Giác ngộ thật khó được (đắc). Vì sao thế? Vì đại Bồ tát phải biết tất cả pháp rồi mới được Vô thượng Giác ngộ, mà pháp ấy cũng chẳng thể đắc.

Phật dạy: Đúng như vậy. Này các Thiên tử! Vô thượng Giác ngộ rất khó được. Phật cũng đã được nhất thiết chủng trí về tất cả pháp rồi mới được Vô thượng Giác ngộ, cũng không chỗ được, không có cái hay biết, không có cái được biết, không có người biết. Vì sao thế? Vì các pháp rốt ráo thanh tịnh vậy.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Như lời dạy của Phật, Vô thượng Giác ngộ rất khó được. Như con hiểu nghĩa của Phật dạy thì Vô thượng Giác ngộ này rất dễ được. Vì sao thế? Vì không có người được Vô thượng Giác ngộ, cũng không có pháp có thể được. Tất cả các pháp, tất cả pháp tướng Không, không có pháp có thể được, không có người có thể được, vì tất cả pháp Không vậy. Cũng không có pháp có thể tăng, cũng không có pháp có thể giảm. Từ bố thícho đến nhất thiết chủng trí, các pháp này đều không có cái để được, không có người được.

Do nhân duyên ấy nên theo ý con thì Vô thượng Giác ngộ dễ được. Vì sao thế? Vì sắc, sắc tướng Không cho đến nhất thiết chủng trínhất thiết chủng trí tướng Không”.

Từ sắc đến các pháp ba la mậtcho đến trí huệ cao nhất là nhất thiết chủng trí đều là tướng Không. Trong tướng Không đó, không tìm đâu ra người đắc và pháp có thể đắc, không có bất cứ một pháp gì nên không có sự tăng giảm. Đó là điều đức Phật nói, “Vì các pháp rốt ráo thanh tịnh vậy”.

Thế nên, Vô thượng Giác ngộ là dễ đắc, vì xưa nay chưa từng có người tu, chưa từng có các pháp để tu, chưa từng có người để đắc.

“Tất cả pháp Không” nghĩa là các pháp xưa nay rốt ráo thanh tịnh, trong đó không có những khái niệm người được, cái để được, mọi khởi niệm chủ thể và đối tượng đều không có. Đây là tánh Không rốt ráo thanh tịnh.

Ngài Xá Lợi Phất với nói với ngài Tu Bồ Đề: Thưa ngài, nếu tất cả pháp Không như hư khônghư không không khởi niệm rằng ta sẽ được Vô thượng Giác ngộ. Nếu đại Bồ tát tin tất cả pháp Không như hư không nên Vô thượng Giác ngộ dễ được thì tại sao hiện nay có hằng hà sa Bồ tát cầu Vô thượng Giác ngộ lại bị thối chuyển? Thế nên biết rằng Vô thượng Giác ngộ chẳng phải dễ được”.

Ngài Xá Lợi Phất là một vị đại A La Hán, hẳn ngài thấu rõ “tất cả pháp Không” nhưng ngài cố tình hỏi ngài Tu Bồ Đề, vị “hiểu Không đệ nhất”, cốt để cho những người các thế hệ sau bỏ những nghi ngờ, tin hiểu tánh Không mà chuyên tâm thực hành.

 

Ngài Tu Bồ Đề nói: Thưa ngài Xá Lợi Phất! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đối với Vô thượng Giác ngộ là có thối chuyển chăng?

Ngài Xá Lợi Phất đáp: Không có thối chuyển”.

“Sắc, thọ, tưởng, hành, thức với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng?” Câu hỏi như một công án mà thấu suốt được nó sẽ phá tan sanh tử của sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Bởi vì với chúng sanh chúng ta, sắc họ tưởng hành thức, những thứ tạo thành con người, là vô thường, sẽ đem lại khổ đau trong sanh tửVậy mà ý ngài Xá Lợi Phất nói là chúng không thối chuyển đối với Vô thượng Bồ đềCần phải thiền định thiền quán thật nhiều để những lời đối đáp của hai vị không phải là vô ích, không phải là văn chương hý luận.

Sắc, thọ… không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ là thế nào? Vô thượng Giác ngộ dĩ nhiên là không thối chuyển, nhưng sắc, thọ,… không thối chuyển là thế nào?

 

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có pháp gì thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ chăng? Cho đến lìa nhất thiết chủng trí có pháp gì thối chuyển chăng?

- Không có pháp gì thối chuyển”.

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ, mà lìa sắc, thọ, tưởng, hành thức cũng không có pháp nào thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ.

Tại sao tất cả pháp đều không thối chuyển mà lìa tất cả pháp cũng không có sự thối chuyển nào cả? Bởi vì:

Tất cả pháp không sanh

Tất cả pháp không diệt

Nếu rõ được như vậy

Chư Phật thường hiện tiền.

(Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Dạ ma cung kệ tán)

Bài kệ này cũng là những lời cuối cùng của Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông nói cho đệ tử Bảo Sát trước khi nhập diệt ở núi Yên Tử.

 

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ý ngài thế nào? Sắc tướng Như, thọ tướng Như, cho đến nhất thiết chủng trí tướng Như, đối với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng?

- Không có thối chuyển.

- Lìa sắc tướng Như cho đến lìa nhất thiết chủng trí tướng Như, đối với Vô thượng Giác ngộ có pháp gì thối chuyển chăng?

- Không có pháp gì thối chuyển.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Như đối với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng? Cho đến pháp tánhpháp trụpháp vịthật tếbất khả tư nghì tánh, đối với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng?

- Không có thối chuyển.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Lìa Như, lìa pháp tánhpháp trụpháp vịthật tế, bất tư nghì tánh, đối với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng?

- Không có thối chuyển.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nếu các pháp rốt ráo chẳng thể đắc thì pháp gì thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ?

- Như lời ngài Tu Bồ Đề nói, trong pháp nhẫn ấy không có Bồ tát thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ”.

Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ, nghĩa là tất cả các pháp chưa hề lìa Vô thượng Giác ngộ, chưa hề lìa khỏi Chân Như. Bởi vì Chân Như chưa bao giờ dịch chuyển khỏi pháp trụpháp vịthật tế của nó để trở thành sanh tử. Thế nên trong Chân Như không có những vấn đề được hay mất, tiến hay thối, tăng hay giảm, dơ hay sạch.

Năm uẩn không thối chuyển trong Chân Như, nên “trong pháp nhẫn ấy không có Bồ tát thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ”.

“Nếu không có pháp gì thối chuyển”, đây là tánh Không tánh Như.

Ngài Xá Lợi Phất nói tiếp:

Nếu không thối chuyển, Phật nói ba hạng người cầu đạo là A La Hán đạoĐộc Giác Phật đạo và Phật đạo, ba hạng ấy là không sai khác. Như lời ngài Tu Bồ Đề nói thì chỉ có một hạng Bồ tát cầu Phật đạo thôi.

Bấy giờ ngài Phú Lâu Na bảo ngài Xá Lợi Phất: Ngài nên hỏi ngài Tu Bồ Đề là có một Bồ tát thừa chăng?

Ngài Tu Bồ Đề nói: Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ở trong các pháp Như, ngài muốn có ba thừa chăng?

- Thưa ngài Tu Bồ Đề, không.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất, trong ba thừa sai biệt ấy có Như để được chăng?

- Thưa không.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất, Như ấy có một tướng, hai tướng, ba tướng chăng?

- Thưa không.

- Trong Như ấy ngài muốn có nhiều Bồ tát cho đến chỉ có một Bồ tát được chăng?

- Thưa không.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất, trong bốn cách trên người ba thừa đều không thể có được, sao ngài lại nghĩ có người cầu Thanh văn thừa, người cầu Độc giác thừa, người cầu Phật thừa?

Thưa ngài Xá Lợi Phấtđại Bồ tát nghe ‘các pháp tướng Như’ này mà tâm chẳng kinh sợ, chẳng thối thất, chẳng hối hận, chẳng nghi ngờ, thì gọi là đại Bồ tát có thể thành tựu Giác ngộ.

Bấy giờ, Phật khen ngợi ngài Tu Bồ ĐềLành thay! Lành thay! Này Tu Bồ Đề! Lời của ông nói đó đều là Phật lực. Nếu đại Bồ tát nghe nói Như ấy không có các pháp riêng khác mà chẳng kinh sợ, chẳng thối thất, chẳng hối hận, chẳng nghi ngờ, phải biết Bồ tát ấy có thể thành tựu Vô thượng Giác ngộ”.

Trong Chân Như, chỉ có Chân Như, không thể có năm uẩn tức là không có chúng sanh và thế giới, không có sự riêng khác của các người ba thừaChân Như là Nhất thừa, từ xưa đến nay, từ cao nhất xuống đến thấp nhất. Chân Như Nhất thừa không có mảy may riêng khác nào trong những cái mà người bình thường gọi là thế giớichúng sanhkhông gianthời gianmê ngộ.

Vô thượng Giác ngộ là Chân Như Nhất thừa này.

Chỉ một cái nhìn sai khác, một ý nghĩ sai khác, một hành động sai khác là người ta đã tự loại mình ra khỏi Chân Như đang bao trùm khắp. Tin hiểu và thực hành như vậy, đó là hành thiền.

 

2/ Các pháp là sự biểu lộ của Chân Như

Kinh nói tiếp:

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn! Thành tựu Giác ngộ nào?

Đức Phật dạy: Thành tựu Phật Vô thượng Giác ngộ.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu muốn thành tựu Vô thượng Giác ngộđại Bồ tát phải tu hành thế nào?

Đức Phật dạy: Phải sanh khởi tâm bình đẳng với tất cả chúng sanh, cũng dùng tâm bình đẳng nói với họ, không thiên lệch. Với tất cả chúng sanh phải có tâm khiêm hạ, cũng dùng tâm khiêm hạ nói với họ. Với tất cả chúng sanh phải có tâm vô ngại, cũng dùng tâm vô ngại nói với họ. Với tất cả chúng sanh phải có tâm không não hại, cũng dùng tâm không não hại nói với họ. Với tất cả chúng sanh phải có tâm yêu kính như cha mẹ, như anh chị em, như bà con, như bạn bè, cũng dùng tâm yêu kính nói với họ”.

Chân Như biểu lộ qua tất cả các pháp, các pháp môn, và chính nhờ sự biểu lộ thành cái có thể cảm nhận được, có thể suy nghĩ, thấy, nghe này mà người ta có thể tiếp xúc, thấy ra, chứng ngộ Chân NhưChân Như là nền tảng và cũng chính là những biểu lộ đó, nên qua chúng, người ta có thể kinh nghiệm được Chân NhưChân Như là Nền tảng, các pháp thực hành là Con đường, và Chân Như cũng chính là Quả.

 

Đoạn kinh trên nói về thực hành từ bi và với tâm từ bi người ta sống và làm việc, nhờ đó có thể thấy ra được Chân Như. Tại sao phải tu hành từ bi để thấy biết và thể nhập Chân Như? Bởi vì Chân Như là “một Như, không hai, không khác”, và từ bi rốt ráo là cái Một không hai, không khác.

 

Tiếp đó kinh nói đại Bồ tát phải “không sát sanh, không tà kiến, phải tự tu hành tâm từtâm bitâm hỷ, tâm xả, tự tu hành sơ thiền đến phi phi tưởng xứ định, đầy đủ sáu ba la mật, tự mình biết và chứng Tứ Đế, các quả của ba thừa cho đến nhất thiết chủng tríĐại Bồ tát phải tự mình nhập Bồ tát vị, tịnh Phật quốc độthành tựu chúng sanh…”, nghĩa là tu hành tất cả Phật pháp.

Vì như ở trước kinh nói, “Vì đại Bồ tát phải biết tất cả pháp rồi mới được Vô thượng Giác ngộ, pháp này cũng bất khả đắc”.

 

Đức Phật dạy: Muốn thành tựu Vô thượng Giác ngộđại Bồ tát phải tu hành như vậy. Cũng phải học lực phương tiện của Bát nhã ba la mật như vậy. Lúc học như vậy, tu hành như vậy, Bồ tát này sẽ được sắc vô ngại, sẽ được thọ, tưởng, hành, thức vô ngạicho đến sẽ được pháp trụ vô ngại.

Tại sao thế? Vì đại Bồ tát này từ trước cho đến nay chẳng thọ lấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến chẳng thọ lấy nhất thiết chủng trí.

Tại sao thế? Vì sắc mà chẳng có người thọ thì chẳng phải sắc. Cho đến nhất thiết chủng trí mà chẳng có người thọ thì chẳng phải nhất thiết chủng trí.

Lúc nói Bồ tát hạnh này, có hai trăm ngàn Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn”.

Bồ tát thì tu tất cả các pháp. Nhưng tất cả các pháp đều hiện hữu trên và lưu xuất từ Nền tảng Chân Như - Tánh Không nên tu tất cả pháp mà chẳng thọ tất cả pháp. Không thọ chính là Trí huệ tánh Không. Thế nên Bồ tát không thọ mà sống và làm việc, do đó Bồ tát giải thoát ngay khi sống và làm công việc Bồ tátBồ tát hạnhBồ tát hạnh là tu tất cả các pháp trong chính Nền tảng Không - Như của tất cả các pháp. Khi ấy tất cả các pháp là vô ngại, nghĩa là tất cả các pháp chính là tự do.

Khi hoàn toàn thấy tất cả các pháp, tất cả sắc thọ tưởng hành thức là Không – Như, là vô ngại, tức là đắc vô sanh pháp nhẫn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1182)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1651)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1583)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1498)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1477)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1336)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1390)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1716)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1982)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1096)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2035)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1478)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1564)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1394)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2918)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1379)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1412)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1734)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1685)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1636)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1480)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2646)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1609)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1615)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1409)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1428)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1572)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1449)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1438)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1524)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2206)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1555)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1516)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1633)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1848)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1540)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1421)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1677)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1720)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2394)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1478)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1966)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1685)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1765)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1624)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1958)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1690)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1445)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1735)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1586)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1556)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1340)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1256)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1303)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1535)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant