Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lý Tưởng Giải Thoát Của Phật Giáo Nguyên ThủyPhật Giáo Đại Thừa

18 Tháng Mười Hai 202207:16(Xem: 1762)
Lý Tưởng Giải Thoát Của Phật Giáo Nguyên Thủy Và Phật Giáo Đại Thừa
Lý Tưởng Giải Thoát Của Phật Giáo Nguyên Thủy
Phật Giáo Đại Thừa

 Thích Nữ Thắng Tâm

chu tieu 6

Tóm tắt: Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyênPhật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và nhiều quốc gia trên thế giới nhằm hướng mọi người tu tập để chuyển hoá khổ đau giữa cuộc đời này. Trải qua những giai đoạn thăng trầm của lịch sửđặc biệt, sự ra đời của Phật giáo Đại thừa đã làm phong phú thêm hệ thống triết lý của Phật giáo Nguyên thuỷ, trong đó có lý tưởng giải thoát.

BỐI CẢNH RA ĐỜI PHẬT GIÁO TẠI ẤN ĐỘ

Khoảng thế kỷ IX trước Công nguyêngiai cấp Khattiya khoanh vùng quyền lực của giai cấp Brahmana trong xã hội. Khi đó, các quốc gia tranh giành lãnh thổ khiến Ấn Độ bị chia cắt thành 4 vương quốc lớn, gồm: Magada, Kosalà, Vạmsas, Avanti; và 12 tiểu quốc: Angà, Vajjì, Kurù,… Hoạt động kinh tế tại các kinh đô phát triển mạnh khiến người dân đổ về sinh sống, mật độ dân số phân bố không đều, sự phân hoá giàu nghèo và giai cấp ngày một sâu sắc.

Nền văn hóa chính tại Ấn Độ bấy giờ là văn hóa Vệ-đà (Veda), nghiêng về thờ phụng nhiều thần thánh. Các bộ lạc người Aryan xâm chiếm các vùng lãnh thổ Tây Bắc Ấn và lan rộng ra hầu hết bán đảo Ấn Độ hơn 1.000 năm trước Công nguyên, chuyển văn hoá Vệ-đà thành Bà-la-môn giáo và phân hoá xã hội thành bốn giai cấp chính, gồm: Brahmana hay Bà-la-môn (giai cấp thống trị), Khattiya hay Sát-đế-lợi (vua chúa), Vessas hay Vệ-xá (thương gia, địa chủ), Shudra hay Thủ-đà-la (thợ thuyền, tôi tớ). Trước sự khủng hoảng từ kinh tế, chính trị, văn hoá cho đến tôn giáo, cùng với sự xuất hiện triết lý Áo-nghĩa-thư và hệ tư tưởng Sa-môn đã tạo cho xã hội Ấn Độ bước chuyển mình sang thời kỳ tôn giáo mới. Đối kháng với hệ tư tưởng Vệ-đà trước đó, hệ tư tưởng Sa-môn với nhóm lục sư ngoại đạo và Phật giáo hình thành những quan điểm về thế giới quan và nhân sinh quan khác nhau.

LÝ TƯỞNG GIẢI THOÁT CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THUỶ

Phật giáo bắt đầu từ khi Đức Phật thành đạo dưới cội cây Bồ-đề rồi đi giáo hóa cùng với các đệ tử của Phật cho đến khi nhập Niết bàn tại rừng Ta-la-song-thọ, thành Câu-thi-na. Đức Phật và chư thánh Tăng quán chiếu thấy tâm chúng sanh luôn bị năm chướng ngại [1] ngăn che khiến “tâm bị uế nhiễm không được nhu nhuyến, không dễ sử dụng, không sáng chói, bị bể vụn, không chơn chánh, định tĩnh để đoạn diệt các lậu hoặc” [2]. Thêm vào đó, trong Kinh Ví Dụ Tấm Vải thuộc Kinh Trung Bộ liệt kê một số trạng thái tâm cấu uế như: “Tham dục, tà tham, sân, phẫn, hận, hư nguỵ, não hại, tật đố, xan thamman trá, khi cuống, ngoan cố, cấp tháo, quá mạn, kiêu, phóng dật” [3].

Nguyên do chính bởi “ái đưa đến tái sanhcâu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Tức là dục áihữu áiphi hữu ái” [4]. Chính những uế nhiễm đó làm chướng ngại trên lộ trình tu học giải thoát, nên Đức Phật đã khuyến tấn hàng đệ tử phải nỗ lực tinh tấn tu tập con đường tám chánh (Bát chánh đạo), bốn tâm vô lượng (Tứ vô lượng tâm), bốn chỗ quán niệm (Tứ niệm xứ), quán mười hai nhân duyên,… lần lượt đoạn trừ mười kiết sử (Thập kiết sử) gồm: Thân kiến, nghi, giới cấm thủdục tham, sân (năm hạ phần kiết sử) và sắc áivô sắc ái, mạn, trạo cửvô minh (năm thượng phần kiết sử) [5], để chứng đắc các quả vị Thanh-văn.

Để chứng được Sơ quả Tu-đà-hoàn, hành giả cần thực hành: “Đối với các giới luậthành trì toàn phần, đối với định, hành trì một phần, đối với tuệ, hành trì một phần. Vị ấy có vi phạm học pháp nhỏ nhặt nhỏ nhiệm nào, vị ấy được xem là thanh tịnh. Vì cớ sao? Ở đây, này các Tỳ kheo, Ta không tuyên bố chúng làm cho vị ấy không có khả năng. Phàm có những học pháp nào là căn bản Phạm hạnh, tương xứng Phạm hạnh, ở đây, vị ấy kiên trì giới ấy, kiên trú giới ấy, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Vị ấy, do đoạn tận ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc đạt đến Chánh giác” [6]. Hành giả sau khi đoạn trừ ba kiết sử đầu tiên, tức là thân kiến, nghi và giới cấm thủ, sẽ nhập vào dòng Thánh (dự lưu), từng bước đoạn trừ các pháp bất thiện và không còn thối đọa.

Vị Tu-đà-hoàn tiếp tục hành trì “đoạn dứt ba kiết sử, làm nhẹ bớt tham, sân, si, thành bậc Nhứt lai, còn phải sanh lại trong đời này một lần nữa trước khi diệt hẳn khổ đau” [7]. Sau khi vị đó làm giảm bớt những dục tham và sân trong tâm, sẽ chứng đắc Nhị quả Tư-đà-hàm, chỉ còn tái sanh lại một lần nữa (Nhất lai). Vị đó nỗ lực tu tập “đoạn dứt năm hạ phần kiết sử, thành vị hóa sanh, nhập Niết-bàn tại đây, không còn phải trở lại thế giới này nữa” [8] sẽ chứng đắc Tam quả A-na-hàm hay còn gọi là Thánh quả Bất Lai.

Quả vị cuối cùng trong Tứ quả Thanh-văn đó chính là Tứ quả A-la-hán. Vị A-na-hàm tu tập đoạn trừ năm thượng phần kiết sử gồm sắc áivô sắc ái, mạn, trạo cử và vô minh sẽ chứng đắc quả A-la-hán “các lậu hoặc đã được diệt tận, phạm hạnh đã thành, đã làm những việc phải làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt mục đích tối thượng, hữu kiết sử đã diệt, nhờ chánh trí đã được giải thoát” [9]. Đức Phật được xem là bậc Đại A-la-hán so với các đệ tử chứng đắc Thánh quả A-la-hán bởi: “Như Lai, này các Tỳ kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, làm cho khởi lên con đường (trước kia) chưa khởi, là bậc đem lại con đường (trước kia) chưa được đem lại, là bậc tuyên thuyết con đường (trước kia) chưa được tuyên thuyết, bậc tri đạo, bậc ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo. Còn này, này các Tỳ kheo, các vị đệ tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu (đạo)” [10]. 

Theo quan điểm của Phật giáo Nguyên thuỷ, có hai loại Niết bànHữu dư y Niết bàn và Vô dư y Niết bànHữu dư y Niết bàn là trạng thái phiền não đã đoạn tận nhưng nhục thể còn dư tàn (Lục Tổ Huệ NăngThiền sư Vũ Khắc Minh, Thiền sư Vũ Khắc Trường,…). Ngược lại, Vô dư y Niết bàn tức chỉ cho các vị Thánh A-la-hán đã nhập Niết-bàn, tiêu biểu như Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên,…

Lộ trình tu tập chứng đắc Thánh quả của mỗi vị khác nhau: Có vị chứng quả nhanh (Ca-diếp, Xá-lợi-phất,…), có vị chứng quả chậm (Châu-lợi-bàn-đặc, A-nan). Ngoài việc nỗ lực chứng quả cho tự thân, các hàng đệ tử Phật còn đem chánh pháp như: Thập nhị nhân duyênTứ diệu đếThập thiện nghiệpBát chánh đạoNgũ uẩnTứ niệm xứ,… để hướng dẫn mọi người tu tập theo kinh tạng Nikāya (Kinh Trường Bộ, kinh Trung Bộ, kinh Tăng Chi Bộ, kinh Tương Ưng Bộ và kinh Tiểu Bộchuyển hóa khổ đau, chứng đắc Thánh quả.

LÝ TƯỞNG GIẢI THOÁT CỦA PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

Trải qua thời kỳ bộ pháiPhật giáo Đại thừa được hình thành. Ảnh hưởng của những vị luận sư nổi bật tại Ấn Độ thời đó, như: Bồ tát Mã Minh với Đại thừa khởi tín luậnBồ tát Long Thọ với Trung luận và Đại trí độ luậnBồ tát Đề Bà với Bách luậnBồ tát Vô Trước với Pháp tướng Duy thức tông và Du già sư địa luậnBồ tát Thế Thân với Nhiếp đại thừa luận và Câu xá luận,… đã làm cho Phật giáo Đại thừa phát triển. 

Về lý luậnPhật giáo Đại thừa đã bổ sung thêm nhiều pháp tu phù hợp bối cảnh xã hội, với nhiều phương pháp hoá độ của chư Phật (A Di ĐàDược SưĐa Bảo,…) và Bồ tát (Văn Thù Sư LợiPhổ HiềnQuán Thế ÂmĐịa TạngNhật Quang Biến ChiếuNguyệt Quang Biến ChiếuTrí Tích,…). Về thực tiễnPhật giáo Đại thừa nêu cao tinh thần lợi tha [11].

Để chứng đắc quả vị Đẳng giác Bồ táthành giả tu tập trải qua 50 địa vị Bồ tát như: Thập tínthập trụthập hạnhthập hồi hướng và thập địa. Trước hết, thập tín (thập tín tâm): Mười niềm tin để một hành giả Bồ tát bước vào cửa Tam hiền, gồm: Tín tâmNiệm tâmTinh tấn tâm, Định tâm, Huệ tâm, Giới tâm, Hồi hướng tâm, Hộ pháp tâm, Xả tâm và Nguyện tâmThành tựu thập tínBồ tát bước vào Tam hiền, gồm: Thập trụ (Phát ý trụ, Trì địa trụ, Ứng hành trụ, Sinh quý trụ, Trụ hành trụ, Chánh tâm trụ, Bất thối trụ, Đồng chân trụ, Liễu sinh trụ, và Bổ xứ trụ); thập hạnh (Hoan hỷ hạnh, Nhiêu ích hạnh, Vô sân hận hạnh, Vô tận hạnh, Ly si loạn hạnhThiện hiện hạnhVô trước hạnhTôn trọng hạnh, Thiện pháp hạnh, và Chân thật hạnh); và thập hồi hướng (Cứu hộ nhất thiết chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướngBất hoại hồi hướng, Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng, Chí nhất thiết xứ hồi hướngVô tận công đức tạng hồi hướngTùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướngTùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sanh hồi hướng, Như tướng hồi hướng, Vô phược vô trước giải thoát hồi hướng, và Pháp giới vô lượng hồi hướng). Cuối cùng để thành tựu bậc Thánh, vị đó trải qua mười địa vị (Thập địa, gồm: Hoan hỷ địaLy cấu địaPhát quang địaDiễm huệ địaNan thắng địaHiện tiền địaViễn hành địaBất động địaThiện huệ địa, và Pháp vân địa). 

Các Bồ tát với đại nguyện giáo hoá chúng sanh rộng khắp. Tiêu biểu, trong phẩm Phổ môn của kinh Pháp Hoahình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm cứu đoàn lái buôn trên biển cả sóng gió, hiện các ứng hoá thân khác nhau như: Thân Phật, thân Thanh-văn, thân Tỳ kheo, thân trưởng giả, thân cư sĩ,… để cứu độ chúng sanh trong những hoàn cảnh khác nhau. Trong kinh Địa TạngBồ tát Địa Tạng phát nguyện cứu độ hết chúng sanh khổ đau trong sáu đườngBồ tát Thường Bất Khinh thường đi lễ lạy với câu nhắc mọi người: “Ta chẳng dám khinh quý Ngài. Quý Ngài chẳng bao lâu sẽ thành Phật”. Để thực hành hạnh nguyện lợi tha độ sanh, các Bồ tát nỗ lực tu tập sáu Ba-la-mật gồm: Bố thítrì giớinhẫn nhục, tin tấn, thiền định và trí tuệ

Ngoài hai cảnh giới Niết bàn như trong Phật giáo Nguyên thuỷ, Phật giáo Đại thừa còn có thêm hai cảnh giới khác là: Vô trụ xứ Niết bàn và Tự tánh thanh tịnh Niết bànBồ tát với tâm từ bi bao la rộng lớn thương xót chúng sanh khổ đau nên không trụ nơi Niết bàn, dùng Bát-nhã cứu độ chúng sanh nên không trụ trong sanh tử. Như trong Bát-nhã tâm kinh có ghi rằng: “Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết chúng sanh” [12]. Đó chính là Vô trụ xứ Niết bàn của Bồ tát Quán Thế Âm trong việc dùng trí tuệ hoá độ chúng sanh tu tập giải thoát khổ đau. Cảnh giới Tự tánh thanh tịnh Niết-bàn (hay còn gọi là Bản lai thanh tịnh Niết bàn, Tánh tịnh Niết bàn) là chỉ cho tự tánh xưa nay vốn thanh tịnh, có đầy đủ công đức không thể nghĩ bàn nhưng do chúng sanh bị khách trần phiền não ngăn che nên không nhận ra, chỉ có bậc Thánh chứng ngộ mới rõ biết.

Có thể thấy, giữa quan điểm về giải thoát của Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa đều cùng từ một nền tảng là giáo lý của Đức Thế tôntôn trọng chánh pháp căn bản như: Tứ đếTam pháp ấnDuyên khởi hay Thập nhị nhân duyênNhân quả nghiệp báoBát chánh đạoNgũ uẩnLuân hồiBình đẳngTam vô lậu học,… nhưng trong đó Duyên khởi làm nền tảng và chúng xuất gia và tại gia nỗ lực đạt được sự giác ngộ giải thoát.

Tóm lạilý tưởng giải thoát của Phật giáo Nguyên thuỷ và Đại thừa đều rất thiết thực cho lộ trình tu tập của hàng xuất gia và tại gia. Để tiến bước trên con đường giác ngộ mỗi mỗi chúng ta đều cần một sự nỗ lực tu tập tinh nghiêm của tự thân và sự hộ trì chánh pháp của hàng cư sĩ tại giaHành giả đó đêm ngày hạ thủ công phu ngõ hầu thành tựu đạo đức giải thoát tự thân và đem chánh pháp truyền bá lợi ích tha nhân, khiến cho Phật pháp mãi rạng ngời trong lòng dân tộc Việt Nam và khắp thế giới nói chung.  

 

Chú thích:

Bài viết này là một phần của đề tài nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học KHXH&NV, ĐHQG TP HCM trong khuôn khổ đề tài mã số SĐH2021-03.

* Thế danh: Nguyễn Ngọc Trinh – Nghiên cứu sinh khoa Triết học, ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM.

[1] Năm triền cáiDục tham triền cái, sân triền cáihôn trầm thuỵ miên triền cáitrạo hối triền cái, nghi triền cái.

[2] ĐTKVNNT (2018), Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, chương Năm pháp, phẩm Triền cái, Kinh Các Uế Nhiễm, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.618.

[3] ĐTKVNNT (2017), Kinh Trung Bộ, tập 1, Kinh Ví Dụ Tấm Vải, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.61-62.

[4] ĐTKVNNT (2018), Kinh Tương Ưng BộĐại phẩm, chương Tương ưng sự thật, phẩm Chuyển Pháp luân, Kinh Như Lai Thuyết, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.783.

[5] ĐTKVNNT (2018), Kinh Tăng Chi Bộ, tập 2, chương Mười pháp, phẩm Hộ trì, Kinh Các Kiết Sử, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.540.

[6] ĐTKVNNT (2018), Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, chương Ba pháp, phẩm Sa-môn, Kinh Hữu Học, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.263.

[7] ĐTKVNNT (2018), Kinh Trường Bộ, Kinh Mahàli, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.146.

[8] ĐTKVNNT (2018), Kinh Trường Bộ, Kinh Mahàli, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.146.

[9] ĐTKVNNT (2018), Kinh Trường BộKinh Khởi Thế Nhân Bổn, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.557.

[10] ĐTKVNNT (2018), Kinh Tương Ưng Bộ, tập 3: Thiên uẩn, chương 1: Tương ưng uẩn, mục B: Năm mươi kinh ở giữa, phẩm Tham luyến, Kinh Chánh Đẳng Giác, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.693.

[11] Thích Mãn Giác (2007), Lịch sử triết học Ấn Độ, Nxb.Văn hoá Sài Gòn, tr.220.

[12] Thích Đăng Quang (soạn) (2015), Kinh nhật tụng, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.31.
(Trích từ: Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo 394)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1182)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1648)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1581)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1497)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1475)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1335)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1388)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1713)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1978)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1095)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2030)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1475)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1562)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1392)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2910)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1378)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1410)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1733)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1682)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1636)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1479)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2645)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1606)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1615)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1407)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1427)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1568)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1446)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1433)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1522)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2205)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1552)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1513)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1632)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1846)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1536)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1418)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1674)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1425)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1713)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2392)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1474)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1964)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1683)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1622)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1956)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1685)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1442)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1730)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1583)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1550)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1338)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1255)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1298)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1530)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant