Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tăng Bảo Là Mạng Mạch Của Phật Pháp

09 Tháng Giêng 202311:16(Xem: 1673)
Tăng Bảo Là Mạng Mạch Của Phật Pháp
Tăng Bảo Là Mạng Mạch Của Phật Pháp

Thích Nữ
 Liên Thuận

hinh phat 14

Tóm tắt: Tăng hay Tăng đoàn là phiên âm từ chữ Saṅgha (Pali) hoặc Saṃgha (Sanskrit), có nghĩa là một nhóm người, một hội chúng sinh hoạt trong cùng một mục đích, một quy luật chung. Về sau, khi đoàn thể đệ tử của Thế Tôn ra đời, danh từ Tăng đoàn thường dùng để chỉ hội chúng xuất gia của Thế Tôn, gồm: Tỳ kheoTỳ kheo NiThức xoa ma naSa diSa di Ni. Do đó, Tăng hay Tăng đoàn còn được gọi là Tăng bảo, ngôi báu thứ ba trong ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng. Tăng đoàn là những người sống với đời sống hoà hợp, để hỗ trợ cho nhau thực hiện đời sống giải thoát và giác ngộđồng thời làm chỗ nương tựa cho chúng sinh tu học.

SỰ RA ĐỜI CỦA TĂNG BẢO

Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng. Ngài nhìn về chúng sinh rồi thiền quánĐức Phật thấy chúng sinh đang trầm luân trong sinh tử, bị che đậy một lớp bụi dày của vô minh. Thương tưởng hàng chúng sinh trong lục đạoĐức Thế Tôn rời khỏi cội Bồ đề đem nguồn chân lý hoá độ quần sinh. Đầu tiên, Ngài tìm đến năm anh em Kiều Trần Như để khai thuyết cho họ về pháp Tứ đếDuyên khởiBát chánh đạo… Kể từ đây, giáo pháp được hình thành và Tăng bảo cũng khởi nguyên từ đó.

Tăng Bảo tiếng phạn là Saṅgha, Trung Hoa dịch là Tăng đoàn, nghĩa là một đoàn thể sống với đời sống hoà hợpthanh tịnh, hỗ trợ nhau thực hiện đời sống giải thoát giác ngộ. Chính đời sống như vậy, Tăng bảo có thể trở thành mảnh đất trù phú cho mọi người gieo trồng hạt giống phước đức và làm nền tảng cho mọi đời sống phạm hạnhtiến bộ tâm linhTăng bảo là ngôi báu thứ ba trong ba ngôi báu Phật bảoPháp bảoTăng bảoĐồng thờihội chúng của Tăng bảo gồm: Tỳ kheoTỳ kheo NiThức xoaSa diSa di Ni, từ 4 vị Tỳ kheo trở lên.

Sau khi Tăng đoàn đã đủ lớn mạnh, Đức Phật dạy các hàng Tỳ kheo: “Này các Tỳ kheo, hãy đi đi, đi khắp nơi vì lợi lạc và hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với cuộc đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của trời và người. Chớ đi hai người chung đường với nhau. Này các Tỳ kheo, hãy thuyết giảng giáo pháp cao thượng ở lúc khởi đầu và cao thượng ở lúc giữa, cao thượng ở lúc cuối trong tâm trí và trong ngôn từ. Hãy rao giảng sự toàn hảo viên mãnđời sống thanh tịnh của trạng thái cao cả. Có những kẻ mà trí óc chỉ bị che mờ bởi đôi chút bụi bặm, nhưng nếu không được giải thoát: những kẻ ấy sẽ hiểu pháp” (Mahāvagga I, 11- Đại phẩm).

Năm tháng trôi qua, bước chân trần của Đức Phật đã rảo bước khắp mảnh đất linh thiêng Ấn Độánh đạo vàng đã chiếu sáng khắp năm châu bằng nhiều phương tiện khác nhau, hoá độ cho những con người khác nhau, từ những hoàn cảnh khác nhau, để rồi dẫn dắt nhân loại trở về với chánh đạo. Và rồi suốt 45 năm hoằng hoá độ sinh, kim tướng của Đức Phật không còn nữa trên cuộc đờiChánh pháp được hàng Tăng bảo duy trì và phát huy hưng thịnh, lưu truyền mãi trên cõi đời.

THANH TỊNH VÀ HÒA HỢP

Tăng bảo với sứ mệnh là “Sứ giả của Như Lai”, đồng thời phải trau dồi Giới – Định – Tuệ, bởi đây là cẩm nang giúp hành giả gạn lọc thân tâmdiệt trừ dục vọng, nhổ sạch tham ái vô minh, đi qua bên kia bờ sinh tử và đạt đến giải thoát. Đây là di sản vô giá mà Đức Thế Tôn đã tìm ra. Từ đó, có đủ khả năng và trách nhiệm truyền tải giáo lý từ bitrí tuệvô ngãvị tha của Đức Phật vào quảng đại quần chúngThành phần Tăng bảo là những bậc hảo tâm xuất gia với hành động vị tha vô ngã, luôn ý niệm về sự giải thoát và dẫn dắt chúng sinh xa rời những giả tạm của cuộc đời. Bởi vậy hạnh nguyện của các vị luôn là:

“Huỷ hình thủ khí tiết

Cát ái từ sở thân

Xuất gia hoằng thánh đạo

Thệ độ nhất thiết nhân”.

Nói đến Tăng đoàn Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến hai đặc tính tiêu biểu là “thanh tịnh và hoà hợp”. Trên cơ sở y cứ vào giới luật mà hai tính chất này mãi tồn tại trong Tăng đoàn, giúp Phật giáo thăng hoa trong suốt chiều dài lịch sử. Chính bởi sự thanh tịnh và hoà hợp này mà vua Pasenadi sau nhiều lần chứng kiến lối sinh hoạt của Tăng đoàn phải thoát lên lời kính phục: “…Bạch Đức Thế Tôn vua chúa thường tranh chấp với vua chúa, Sát đế lợi thường cãi lộn với Sát đế lợi, bạn bè thường hơn thua với bạn bè. Còn ở đây con thấy các thầy Tỳ kheo sống với nhau rất thuận hoà thân hữu, không cãi lộn nhau, hoà hợp như nước với sữa, nhìn nhau bằng cặp mắt ái kính, Bạch Đức Thế Tôn ngoài ra con không thấy một phạm hạnh nào khác viên mãn hoà hợp thanh tịnh như thế” (Trung Bộ Kinh II, Kinh Pháp Trang Nghiêm).

Thanh tịnh và hoà hợp là hai điều kiện hết sức quan trọng và tương quan mật thiết với nhau. Nếu thiếu một trong hai điều kiện này, bản thể Tăng đoàn nhất định không thành tựu. Cho nên, trong Kinh Tăng Chi III, Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheotử thi có thể bị ném vào đại dương, nhưng đại dương không bao giờ dung chứa tử thi. Nó nhanh chóng bị đẩy vào bờ và quăng lên đất khô. Cũng vậy, nếu Tỳ kheo nào không giữ được hạnh thanh tịnh thì Tăng thân sẽ không sống chung với kẻ ấy hãy nhanh chóng tụ họp lại loại kẻ ấy ra. Dù kẻ ấy có ngồi giữa tăng chúng kẻ ấy cũng xa rời tăng chúng và tăng chúng cũng không ôm trọn kẻ ấy”.

Tỳ kheo là một hành giả mang sứ mạng giữ gìn kho báu của Đức Thế Tôn đã gầy dựng, vì thế đòi hỏi phải có một tư lương vững chãiGiáo pháp Đức Phật đòi hỏi sự nỗ lực thực hành và sự toàn diện đạo đức của mỗi cá nhân là nét đẹp trang nghiêm cho đoàn thể. Mỗi vị Tăng, Ni sống đúng như giới luật Phật chế là nguồn năng lực vô biên cho sự lớn mạnh của Tăng đoàn thanh tịnh. “Trú pháp vương gia, trì Như Lai tạng” chính là bản nguyện xưa nay của bao thế hệ Tăng Ni, sống trong nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai. Đây vừa là con đường đạo vừa là mục đích sống, cũng là trách nhiệm của mỗi hành giả đệ tử Phật. Tất cả ngồi lại với nhau trong tinh thần hòa hợp và thanh tịnh, luôn luôn phản tỉnh để cùng nhau làm sống lại hình bóng giải thoát thanh tịnh của Tăng đoàn. Điều đó giúp Phật pháp trường tồn ở thế giantrở thành một giáo đoàn gương mẫu của nhân loại.

Thiết nghĩ, từ khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn đến nay đã trải qua bao xuân thu mà Tăng đoàn Phật giáo vẫn bền vững tồn tại giữa muôn ngàn thăng trầm biến đổi. Điều này chứng tỏ tinh thần tu học của Tăng Ni ngày càng tỏa sáng. Cho nên trách nhiệm xây dựng và bảo vệ ngôi nhà chánh pháp đều tùy thuộc vào sự tu học của Tăng đoàn, nếu Tăng sĩ biết trưởng dưỡng đạo tâm, hằng sống trong giới hạnh và chánh pháp, biết đoàn kết hoà hợp thì ngôi nhà đạo pháp ngày một trang nghiêm. Mối quan hệ giữa trưởng dưỡng đạo tâm và đoàn kết hoà hợp là mối quan hệ hữu cơ và biện chứng. Cả hai hình thành nền tảng và khung sườn cho ngôi nhà đạo pháp được đứng vững. Mỗi Tăng Ni là một viên gạch hình thành ngôi nhà Phật pháp và mỗi bức tường chính là Tăng đoàn, gạch mà không đủ chất lượng thì sẽ làm sụp đổ ngôi nhà đạo pháp. Và ngược lại, những viên gạch đó nếu đầy đủ chất lượng: “Thân hòa đồng trú, giới hoà đồng tu, khẩu hoà vô tránh, ý hoà đồng diệt, kiến hòa đồng giải, lợi hoà đồng quân” thì ngôi nhà đạo pháp ngày một xương minh và vững chãi trong vòng xoay chuyển nhân sinh.

Thực tại hôm nay, chúng ta đang sống trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, khoa học kỹ thuật cùng thông tin đại chúng phát triển mạnh mẽ. Bao cám dỗ từ những vật chất xa hoa lộng lẫy của nhân thế như cơn thác lũ ập đến. Phật giáo cũng tiếp thu những tinh hoa văn hóavăn minh để phù hợp với thời đại. Người tu sĩ an nhiên, bình tâm kiểm tra con đường mình đang đi, cái đích mà mình hướng tới mà quay về với nội tâm tu học để kiến tạo ngôi nhà Phật pháp trang nghiêmcửu trụ trên thế gian.

KẾT LUẬN

Phật giáo có mặt trong lịch sử nhân loại đã hơn 2.600 năm, nhìn những chặng đường đi qua Phật giáo đã định hình rõ nét chỗ đứng của mình trong kho tàng trí tuệ nhân loại. Tất cả chính nhờ sự nỗ lực tu học không ngừng của Tăng đoàn và xây dựng tinh thần bố thí pháp đem lời Phật dạy đến với tất cả mọi người hay nói cách khác là hạnh nguyện: “Hoằng pháp vi gia vụlợi sinh vi sự nghiệp”. Tinh thần dấn thân sâu sắc ở Tăng đoàn là bản hoài của mọi Tăng sĩ đệ tử Phật. Trong biển khổ cuộc đờiĐức Phật là vị Đạo sư, giáo pháp như là thuyền tốt và Tăng Ni là những người chèo thuyền, là người lái đò đưa khách sang đến bờ giác ngộ giải thoát. Mỗi bước chân Tăng sĩ sẽ in trên đất tâm của mọi người sự an lạc và thảnh thơi. Vậy nên, Tăng bảo đóng vai trò rất lớn trong việc xây dựng và bảo vệ ngôi nhà chánh pháp. Bên cạnh việc nuôi dưỡng đạo tâm, sống chánh niệmtỉnh thứcTăng đoàn còn lan tỏa chánh pháp đến khắp năm châu, đưa chúng sinh từ mê sang ngộ giữa những cám dỗ của cuộc đời, trong thế giới ngũ trược đầy đau khổ này. Ánh sáng Tăng bảo là chìa khoá mở ra tất cả cánh cửa cuộc đời, là nơi cho chúng sinh cảm thấy bình an để nương tựa khi gặp phải chướng duyên trong cuộc sống, là nơi khai ngộ cho chúng sinh thấy được sự giả tạo của thế sự phù hoa mà quay về giải thoát, là mạng mạch của Phật pháp toả sáng không ngừng trong dòng chảy của thế nhân. Cho nên, sứ mệnh của Tăng đoàn vô cùng cao quý và trọng đại.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Thích Chơn Thiện (2009), Phật học khái luận, Nxb. Phương Đông.

2. Thích Chơn Thiện (2019), Tăng già thời Đức Phật, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

3. Quảng Tánh (biên soạn, 2011), Lời Phật dạy, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

4. Trần Phương Lan (dịch, 1997), Đức Phật lịch sử, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh .

5. Thích Trung Hậu – Thích Hải Ấn (sưu tập và giới thiệu, 2009), Đức Phật Thích Ca đã xuất hiện như thế, Nxb. Văn hoá Sài Gòn.
(Trích từ: Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 403 ngày 15-12-2022)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1182)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1648)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1581)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1497)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1475)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1335)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1388)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1713)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1978)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1095)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2030)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1475)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1562)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1392)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2910)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1378)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1410)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1733)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1682)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1636)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1479)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2645)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1606)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1615)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1407)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1427)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1568)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1446)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1433)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1522)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2205)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1552)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1513)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1632)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1846)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1536)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1418)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1425)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1713)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2392)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1474)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1964)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1683)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1762)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1622)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1956)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1685)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1442)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1730)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1583)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1550)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1338)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1255)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1298)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1530)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant