Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bàn Về Phật Lịch

02 Tháng Mười 201000:00(Xem: 12125)
Bàn Về Phật Lịch

I. Xác định những mốc lịch sử:

1. Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni). Về vấn đề này, hiện có nhiều thuyết, và nhiều tài liệuViệt Nam chưa nhất quán.

- Mật thể - "Việt Nam Phật giáo sử lược", Minh Đức tái bản, 1960, trang 27 có ghi năm đản sinh như nhau: 1027, 1023, 685, 624, 566, 561, 557, 487, 466 TCN.

- Nguyễn Lang - "Việt Nam Phật giáo sử luận" tập I, 1973, không nêu vấn đề trên.

- Vân Thanh - "Lược khảo Phật giáo sử VN" 1974 thì cho rằng đản sinh vào năm 563 TCN và nhập diệt vào năm 483 TCN (trang 22).

- Lê Mạnh Thất - "Sơ thảo lịch sử Phật giáo Việt Nam", tập 1, Tu thư Vạn Hạnh, cảo bản in rônêô, 1976 ghi là sinh vào khoảng thế kỷ VII trước CN.

- Thích Thanh Kiểm - "Lược sử Phật giáo Ấn Độ", Quê hương, tái bản 1971, xác định đản sinh ngày mùng 8 tháng 4 năm 642 TCN và nhập Niết bàn vào ngày Rằm tháng hai năm Ngài 80 tuổi (544 TCN).

Sau đó ghi thêm 2 thuyết khác là:

+ 566 - 486 TCN (sách Chúng Thánh Điểm Ký)

+ 563 - 483 (Sử Pipavamsa của Nam Phương Phật giáo)

Và ghi thêm: Phật giáo Nam Phương: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan lại thường lấy năm đức Phật nhập Niết bàn tức năm 544 TCN làm lễ kỷ niệm (sđd trang 31 - 41).

- Thích Minh Tuệ - "Lược sử Phật giáo Việt Nam" (1993) có ghi các mốc ngày tháng đản sinh, xuất gia, thành đạonhập Niết bàn.

- PGS TS Trần Ngọc Thêm - "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", 1997, chương 6, mục 22 "Phật giáo và văn hóa Việt Nam" (trang 469 - 470) thì cho rằng sinh khoảng 563 TCN và qua đời khoảng năm 483 TCN. Trước đó, tác giả lại ghi "Đạo Phật hình thành ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ V TCN" (trang 469) (Cũng trong mục này, tác giả có những điểm không nhất quán, hoặc nhầm lẫn. Chúng tôi sẽ có dịp đề cập ở một bài viết khác).

- Huyền Cương - "Thử bàn về cách tính Phật lịch", Nghiên cứu Phật học số 1 - 1997 (trang 25 - 26), sau khi tác giảm làm các phép tính và khẳng định các mốc thời gian: đản sinh 623, xuất gia 604, thành đạo 593, chuyển bánh xe pháp 592, nhập Niết bàn 544 TCN.

- Chúng tôi thiển nghĩ rằng, tất cả các mốc thời gian trên đều dựa vào nhiều truyền thuyết lịch sử đức Phật Thích Ca mà sử sách cũ ghi lại. Có điều, tại sao chúng ta lại không lấy cái mốc thời gianĐại hội Phật giáo Thế giới họp tại Tích Lan lần thứ 1 vào năm 1952 làm chính thống. Tại đại hội này, các vị đại biểu cao tăng thạc đức của toàn cầu đã thống nhất định ra Phật kỳ và Phật lịch. Riêng về Phật lịch, lấy năm đức Thích Ca nhập Niết bàn làm mốc để tính năm đầu Phật lịch. Truyền thuyết về lịch sử đức Phật đều thống nhất là Ngài thọ 80 tuổi (còn các mốc khác lại không nhất quán). Theo cái mốc này ta tính ra như sau:

* Năm 1996 Phật lịch 2540. Điều đó có nghĩa là Thái tử Tất Đạt Đa đản sinh cách đây:

2540 + 80 = 2620 năm và năm đản sinh sẽ là năm 624 TCN, vì 2620 - 1996 = 624

Rất tiếc, trong bài báo của mình, tác giả Huyền Cương dù đưa ra cách tính rất khoa học, sáng tỏ nhưng lại nhằm Phật Lịch 2540 ứng với dương lịch 1997 nên đã xác định năm sinh là 623. Theo chỗ chúng tôi hiểu, tuy Phật giáo thế giới trong kỳ Đại hội 1952 lấy năm Đức Phật Thích Ca nhập diệt là cái mốc để tính năm đầu tiên của Phật lịch, nhưng lại lấy ngày đản sinh (mùng Tám tháng tư hoặc rằm tháng tư) để tính là đầu năm. Vậy Phật lịch 2540 tính tư 8 - 4 Bính Tý 1996, còn năm 1997 (đến ngày 8 - 4 Đinh Sửu 1997) mới tính Phật lịch 2541.

Từ cái mốc trên, căn cứ vào truyền thuyết về lịch sử đức Phật Thích Ca, ta có thể suy ra các mốc sau. (Hiện có nhiều thuyết khác nhau nói về tuổi của năm xuất gia, năm thành đạo. Ở đây chúng tôi dựa vào thuyết tương đối phổ biến mà nhiều nhà Phật học đã chấp nhận).

* Năm xuất gia: 624 - 19 tuổi - 1 (tuổi mụ) = 604 TCN

* Năm thành đạo: 624 - 31 tuổi = 593 TCN

(Tài liệu không nêu rõ số năm đi tu, chỉ nói rằng, Thái tử Tất Đạt Đa sau một thời gian dài tham học các bậc danh sư, kỳ đức như Bạt Già Bà (Bhagavà); A Ra La Ca Lan (Aràlakàlanma) và Uất Đà Ka La Ma Tử (Udraka - Ràmaputta) với nhiều tư tưởng triết lý khác nhau, không xác định rõ số năm. Sau đó, Ngài tự nghĩ "phải chính mình tu thì mới tìm được chính đạo", nên vào rừn phía Tây ngạn sông Ni Liên Thuyền (Naira - njanà) tu khổ hạnh trong 6 năm ròng. Tuy thế, cũng chưa đạt chính quả. Nhờ uống bát sữa của thiếu nữ chăn bò tên Sugìata (Thanh Kiểm ghi là tên Nan Đà) mà Ngài bỏ phương pháp khổ hạnh, ngồi thiền định và chứng ngộ Vô thượng đại Bồ đề vào ngày mùng tám tháng chạp.

* Năm sơ chuyển pháp luân độ 5 anh em ông Kiều Trần Như tại vườn Lộc Dã vào năm sau, tức năm 592 TCN.

* Từ khi thành đạo đến khi nhập Niết bán, đức Phật đã thuyết pháp hoằng hóa trong 49 năm (tính luôn sơ chuyển pháp luân). Vậy ngày nhập Niết bàn là vào năm: 593 - 49 = 544 TCN.

Trên đây là những mốc quan trọng. Ta cũng có thể làm phép tính ngược (lấy năm nhập Niết bàn làm mốc) như tác giả Huyền Cương. Có điều cần lưu ý năm đản sinh như chúng tôi đã nêu ở trên.

II. Đôi điều cần bàn thêm về Phật lịch:

- Mặc dù vào năm 1952, Đại hội Phật giáo thế giới lần thứ I họp tại Tích Lan định ra Phật kỳ và Phật lịch thống nhất trên toàn cầu, nhưng qua tham khảo ý kiến của các bậc cao tăng thạc đức ở tỉnh hội Khánh Hòa, cũng như ý kiến của tác giả Huyền Cương trên tạp chí số 1 - 1997, chúng tôi thấy rằng:

Cách tính Phật lịch mà Đại hội Phật giáo thế giới đã thống nhất có điều chưa hợp lý và thiếu thuyết phục. Chúng tôi rất đồng tình với điều băn khoăn của tác giả Huyền Cương trong bài báo nói trên. Bởi lẽ, nếu tính từ năm nhập Niết bàn thì 49 năm đức Thế Tôn thuyết pháp độ sanh sẽ tính và chỗ nào?

Chúng tôi tâm đắc ý kiến của tác giả rằng: "Sự kiện Ngài bắt đầu chuyển bánh xe pháp mới thực đáng được xem như ngày mở đầu cho kỷ nguyên Phật giáo tại thế gian này, và năm 592 trước dương lịch đáng được chọn làm mốc tính Phật lịch. (NCPH số 1 - 1997). Nhưng tôi nghĩ thêm: có lẽ phải tính Phật lịch từ lúc Ngài thành đạo (tức năm 593 TCN) thì hợp lý hơn cả. Bởi lẽ, có thành đạo, chúng được quả Vô thượng Bồ đề thì từ đó Ngài mới thuyết pháp độ sanh, mới có cơ duyên gieo những hạt giống đạo pháp tốt đẹp, để con người trên thế giới này có điều kiện sống gần gũi với nhau trong tình thương hòa bình, đầy tình người, đậm chất nhân văn hơn. Đây cũng là niềm mơ ước của hàng tỷ con người trên thế giới hiện nay. Cuối cùng, xin cảm ơn tác giả Huyền Cương đã gợi cho tôi có vài suy nghĩ, và qua đôi điều cần bàn thêm, rất mong Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Tổng hội Phật giáo thế giới quan tâm xem xét và có nên định lại Phật lịch thống nhất trên toàn cầu chăng?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11083)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14368)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11540)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12718)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12330)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11092)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10968)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13447)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11883)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13757)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11983)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11242)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12298)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12465)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20671)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12488)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12513)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11768)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11655)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22497)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13648)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29799)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11606)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16823)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12063)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16920)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12154)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 18022)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12718)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13239)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14829)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22742)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10647)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14120)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13923)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13773)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13937)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13993)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14906)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13934)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18488)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22891)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15466)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17392)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22488)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14332)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12693)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11246)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17864)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13278)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13190)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18880)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17251)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13591)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 13003)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14778)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14766)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15952)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13590)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27545)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant