Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

11. Đại đức Hui Li: Một trong những bài học đầu tiên trong Phật giáovô thường

06 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 17064)
11. Đại đức Hui Li: Một trong những bài học đầu tiên trong Phật giáo là vô thường
TRÍ TUỆ TRONG PHẬT GIÁO
Hoang Phong

PHẦN II

CÁC BÀI DỊCH CỦA HOANG PHONG

ĐẠI ĐỨC HUI LI

Một trong những bài học đầu tiên trong Phật giáovô thường
Bài phỏng vấn của nữ ký giả Béatrice HOPE

 

hui_liLời giới thiệu của người dịch: Phật giáo ngày nay không những được phổ biến trong các quốc gia tân tiến ở Âu châu và Mỹ châu mà còn đi sâu vào những vùng xa xôi mà phần đông chúng ta không ngờ đến. Dưới đây là phần chuyển ngữ một bài báo phỏng vấn một nhà sư người Đài Loan rất tích cực trong việc hoằng pháp trên lục địa Phi châu. Bài báo được đăng ngày 30.10.09, trên tạp chí L’Express bằng tiếng Pháp của xứ Maurice và trên mạng epaper.lexpres.mu cũng của quốc gia này.

Lời giới thiệu của ký giả Béatrice Hope : Nhà sư Hui Li đã ghé vào đảo Maurice từ 26 đến 28 tháng 10, năm 2009. Ông dự định mở một tu viện để nuôi trẻ mồ côi tại đây. Nhu cầu nuôi dưỡng và chi phí giáo dục trẻ mồ côi sẽ được chu cấp đầy đủ, đồng thời giáo lý của Đức Phật cũng sẽ được mang ra giảng dạy cho các em. Đại đức Hui Li là một nhà sư được nhiều người biết đến, nhất là giới phật tử trong các quốc gia như Đài Loan, lục địa Trung quốc, Nam Phi. Dưới danh nghĩa Phật giáo Đài Loan và chùa Fo Guang Shan (Phổ Quang Sơn ?), chính ông đã đứng ra xây dựng ngôi chùa đầu tiên và và cũng là ngôi chùa lớn nhất trên lục địa Phi châu vào năm 1992, ngôi chùa này mang tên là Nan Hua và cũng là nơi dùng để giảng dạy Phật Pháp. Ngôi chùa Nan Hua tọa lạc trong vùng Bronhorstpruit tại Nam Phi.

Bài phỏng vấn nhà sư Hui Li

Thưa ông, ông thuộc vào trường phái Phật giáo nào?

Tôi là đệ tử của Hòa thượng Hsing Yun người đã thành lập ngôi chùa Phổ Quang Sơn ở Đài Loan. Tôi thuộc học phái Thiền tông, tiếng phổ thông gọi là Chan và tiếng Nhật gọi là Zen, đó là một học phái chú trọng đến sự suy tư và nhập định.

Những sinh hoạt của ông hiện nay là gì?

Ngoài ngôi chùa Nan Hua, tôi còn xây dựng được nhiều trung tâm khác ở Phi châu để nuôi dạy trẻ mồ côi. Tôi xây dựng trung tâm đầu tiên Amitofo Care Centre (Trung tâm Bảo dưỡng A-Di-Đà) vào năm 2003.

Hiện nay thì tôi đang quản lý tất cả năm Trung tâm như thế: hai ở Malawi, một ở Zimbabwe, một ở Lesotho và một ở Swaziland. Tôi cũng đang dự tính thành lập thêm nhiều trung tâm khác trên phần lục địa này.

Hiện nay có khoảng 3000 trẻ em đang được nuôi dững trong các trung tâm A-Di-Đà trên đây. Các em thuộc vào lứa tuổi từ 4 đến 15. Chúng tôi chăm sóc chúng như con nuôi vì cha mẹ chúng đã chết vì bịnh SIDA/HIV. Chúng tôi muốn mở ra cho chúng một chút viễn tượng của tương lai.

Ông đã dạy dỗ cho chúng những điều gì?

Các môn như tiếng phổ thông, cách hành thiền và võ thiếu lâm là các môn chính được đem ra dạy dỗ cho các em. Hiện nay, chúng tôi chỉ đủ sức phụ trách giảng dạy đến cấp tiểu học. Tuy nhiên cấp trung học sẽ được mở thêm trong tương lai gần đây.

Động cơ nào đã thúc đẩy ông ghé đến đảo Maurice?

Tôi nhận lời mời của Ni sư Shi-sen Miow sinh sống ở Maurice. Bà đã ngỏ lời mời tôi nhiều lần, tuy nhiên trước đây tôi chưa tìm được dịp nào thuận tiện.

Ông có dự tính thiết lập một trung tâm hay một ngôi chùa nào ở đây hay không?

Tôi cũng đang nghĩ đến việc ấy. Tốt hơn hết có lẽ nên thành lập một tu viện tiếp nhận trẻ mồ côi trước đã. Dù sao thì tôi cũng đang bận rộn trong việc quản lýxây dựng thêm các trung tâm A-Di-Đà trên lục địa Phi châu... Hơn nữa, còn nhiều trở ngại trong công tác vận động trên phần đất này vì chúng tôi không nói được các ngôn ngữ của quý vị. Ngoài ra còn một điều nữa là chính quyền Maurice có sẵn sàng cấp cho chúng tôi giấy phép xây cất hay không. Hiện nay thì tôi chưa có thể tuyên bố gì cả... Còn phải chờ xem sao.

Phật giáo đã hiện diện trên lục địa Phi châu. Vả lại cũng phải nói là Phật giáo ngày càng phổ cập khắp nơi trên thế giới. Vậy ông có thể giải thích thật đơn giản giáo lý của Đức Phật là gì ?

Phật giáo được thiết lập bởi một người mang tên là Sĩ-đạt-ta Cồ-đàm. Vị ấy là vị Phật đầu tiên.

Đối với các tôn giáo khác, Trời chính là vị đã sáng tạo ra Địa cầu. Đức Phật không hề tự gán cho mình cái chức năng ấy. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải tin một cách mù quáng vào các lời giáo huấn của Ngài. Trái lại Ngài chỉ đơn giản khuyên bảo chúng ta hãy đem thực hành những lời giáo huấn ấy trước đã và sau đó tự mình xác định xem có thích hợp cho mình hay không.

Một trong những bài học đầu tiên trong Phật giáovô thường. Chúng tôi hiểu rằng tất cả mọi hiện tượng đều đổi thay. Chỉ có chính sự kiện đó [tức là vô thường] là không thay đổi mà thôi.

Chúng tôi cũng quán nhận được là những cảm nhận của chúng tôi về thế giới này được tạo dựng là do những gì đang xảy ra theo từng giây phút một trong con tim của chúng tôi, những phát hiện đó xảy ra một cách thật trung thực trong từng giây phút một.

Chính vì thế mà suốt trong 24 giờ, trong mỗi cá thể con người đều hiển hiện ra 1 000 tư duy khác nhau chung với thật nhiều thể dạng tâm thức khác nhau, tương đương với con số những tư duy.

Mỗi con người đều cảm nhận được sự vui mừng, giận dữ, buồn khổ... Tất cả những giác cảm ấy đều phát sinh từ một con tim duy nhất.

Một bài học khác là sự tương liên của tất cả những gì hiện hữu. Chúng tôi hiểu rằng mỗi vật thể đều được cấu hợp bởi vô số thành phần. Khi đem tách rời các thành phần, thì vật thể ấy không còn nữa. Bởi vì tất cả đều liên kết với nhau.

Tuy nhiên một trong những lời dạy bảo căn bản nhất của Đức Phật là trong cuộc sống này ta phải luôn luôn canh chừng từng tư duy và từng hành động của mình. Chúng sẽ tích lũyảnh hưởng đến nghiệp của chính mình. Vì lý do đó mà chúng ta phải hành động một cách thật chín chắn. Vả lại cũng có thể nói rằng «Phật» chính là sự «Giác ngộ»..

Ghi chú của người dịch:

 Nước Cộng Hòa Maurice được chính thức thành lập vào ngày 12 tháng 3 năm 1992 sau khi dành được độc lập vào năm 1962. Thật ra lãnh thổ Công hòa Maurice chỉ là một hòn đảo nhỏ nằm vào phía tây nam của Ấn độ dương bên cạnh đảo Madagascar, thuộc bờ đông nam của lục địa Phi châu.

 Đảo có diện tích 1866 km², dân chúng sống nhờ vào kỷ nghệ trồng mía và trà, vì thế rừng bị tàn phá gần hết chỉ còn lại một vài đốm nhỏ trong các vùng núi. Người Hòa lan tìm ra đảo này trước nhất. Người Pháp tuy đến sau nhưng lại thành lập được thuộc địa tại đây. Dân số hiện nay là 1 268 835 người (thống kê ngày mùng 1 tháng 7 năm 2008).

 Trước tiên là người Pháp kéo nhau đổ bộ lên đảo để thiết lập thuộc địa, sau đó đến lượt người Anh và tiếp theo đó là các sắc dân nô lệ do người da trắng đưa từ lục địa Phi châu lên đảo. Sau hết là người Trung hoa và người Ấn độ cũng di dân đến đây. Ngôn ngữ chính gồm tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng créole tức là một thứ ngôn ngữ pha trộn của dân địa phương sinh đẻ trên đảo. Các ngôn ngữ phụ gồm có các tiếng : hindi, bhojpuri, ourdu, tiếng phổ thông, hakka và tamoul.

 Hiện nay người gốc Ấn chiếm 68% dân số, trong số này có 16% theo Hồi giáo. Nhóm người này đang tích cực «Ấn hóa» toàn thể đảo Maurice, họ chiếm giữ chính quyền mà trước đây thuộc vào tay của thiểu số người da trắng. Dân lai da trắng sinh đẻ tại chỗ gọi là dân Créole chiếm 27%, số người này theo Thiên chúa giáo. Người Trung hoa chỉ chiếm 3%, nhưng lại là nhóm dân tích cực hơn cả, họ nắm giữ thương trường và kinh tế. Sau hết là thiểu số người da trắng gồm 2%, tượng trưng cho tầng lớp «quý phái» của thời kỳ thuộc địa rơi rớt lại.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 51)
Là một thuật ngữ âm Hán – Việt, có lẽ khó hiểu với một số Phật tử cũng như những người trẻ.
(Xem: 360)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 391)
Trong suốt khoảng thời gian mười lăm thế kỷ khi Phật giáo có mặt ở Ấn Độ, đã xuất hiện những quan điểm khác nhau về...
(Xem: 363)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng.
(Xem: 400)
Đức Phật (khoảng năm 450 trước Công nguyên) là người có giáo lý tạo thành nền tảng của truyền thống Phật giáo.
(Xem: 478)
Chỗ ở của người tu thường là nơi thanh vắng, núi rừng. Thời Đức Phật còn tại thế cũng thường ở trong những khu rừng.
(Xem: 433)
Trên con đường tiến hóa của mình, loài người tiến theo hướng càng ngày càng thiện lành hơn.
(Xem: 522)
Đầu đà tăng còn gọi là khổ hạnh tăng. Hán dịch chữ Tăng, không chỉ riêng tăng nhân Phật giáo mà nhằm chỉ vị tăng của các tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
(Xem: 699)
Truyền Đăng sinh năm 1554, họ Diệp, hiệu Vô Tận, biệt hiệu Hữu Môn.
(Xem: 723)
Tính nối kết là một đặc trưng của kinh Pháp Hoa. Ở đây chỉ trích ra một ít câu để làm rõ.
(Xem: 707)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 954)
Lama Zopa Rinpoche giải thích phương pháp thiền về tính không trong cuộc sống hàng ngày.
(Xem: 1234)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 964)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(Xem: 1187)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(Xem: 1281)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(Xem: 1324)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất giatại gia mỗi ngày.
(Xem: 1536)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(Xem: 1371)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(Xem: 1126)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(Xem: 1338)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(Xem: 1278)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(Xem: 1494)
Việt Namquốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(Xem: 1367)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 1658)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 1338)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(Xem: 1403)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(Xem: 1599)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(Xem: 1257)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(Xem: 1429)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(Xem: 1351)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(Xem: 1521)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(Xem: 1122)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 1578)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(Xem: 1121)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(Xem: 1174)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(Xem: 1051)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(Xem: 1619)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(Xem: 1390)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(Xem: 1646)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(Xem: 1739)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(Xem: 1895)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(Xem: 2149)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(Xem: 1887)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(Xem: 1781)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 1381)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(Xem: 1398)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1267)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(Xem: 1273)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(Xem: 2270)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(Xem: 1871)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 1821)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 1767)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(Xem: 1712)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1678)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 2102)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(Xem: 2424)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(Xem: 2185)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(Xem: 1878)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant