Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nhận thức luận theo Nhân Minh học Phật giáo

18 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 15880)
Nhận thức luận theo Nhân Minh học Phật giáo


nhanthucluantheonhanminhhocpg-minhchiKhác với môn Logic học phương Tây, Nhân minh học (Logic học) Phật giáo bao gồm hai mục lớn là Nhận thức luận và Tam đoạn luận (syllogium), trong đó mục Nhận thức luận là chủ yếu, mục Tam đoạn luận là thứ yếu. Bởi lẽ, Tam đoạn luận chỉ là nhận thức đúng đắn, được diễn đạt một cách logic, có sức thuyết phục mà thôi.

Mở đầu cuốn luận Nyaya bindu (Một giọt logic)(1), luận sư Dharmakirti (Pháp Xứng) viết: “Tất cả mọi hành động thành công của con người đều bắt đầu bằng nhận thức đúng đắn”. 

Với lời khẳng định đó, Dharmakirti đã nói lên tầm quan trọng của môn Nhân minh học Phật giáo nói chung, và nhận thức luận Phật giáo nói riêng đối với nhân sinh, đối với mọi hoạt động – kể cả hoạt động hàng ngày của con người. Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn. Mọi ý nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta phải là một bước tiến trên con đường đạo, con đường giác ngộgiải thoát. Mọi ý nghĩ, lời nóiviệc làm của người Phật tử phải xuất phát từ nhận thức đúng đắn đối với mục tiêu tối hậu đó.

Trong Bát chánh đạo, chánh tri kiến chính là nhận thức đúng đắn. Nhờ nhận thức đúng đắn cuộc đờivô thường, khổ, vô ngã, mọi sự vật hiện tượng đều là do nhân duyên sinh cho nên chúng là giả tạm, rỗng không, không đáng để chúng ta tham đắm, vướng mắc, bị lệ thuộc. Chính nhận thức đó giúp chúng ta sống tự tại giữa cuộc đời thế tục, biết được khổ, nhân duyên nảy sinh của khổ, cũng như con đường diệt khổ như thế nào, từ đó chúng ta quyết tâm sống và tu theo Bát chánh đạo, con đường dẫn tới hạnh phúc cứu kính Niết bàn. Đó là tầm quan trọng của nhận thức đúng đắn đối với những người Phật tử, người học và tu theo Phật pháp.

Nhận thức đúng đắn rất quan trọng trong cuộc sống đời thường của chúng ta, cũng như trong mọi mặt đời sống gia đìnhxã hội. Chính nhờ nhận thức đúng đắn về vai trò giáo dục của gia đình mà người cha, người mẹ và những người lớn khác đều sống làm gương cho con cháu, tức là sống đoàn kết, hòa thuận với nhau, giữ gìn bầu không khí tốt đẹp trong gia đình, đồng thời cũng sống lương thiện trong phạm vi luật pháp.

Nhờ nhận thức đúng đắn vai trò của thầy cô giáo các cấp đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, thầy cô giáo không những nhiệt tình truyền đạt kiến thức mà còn phải có cuộc sống gương mẫu của nhà mô phạm.

Nhờ nhận thức đúng đắn vai trò của người cán bộ là đầy tớ của nhân dân, mà người cán bộ sống “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, lo trước cái lo của nhân dân, vui sau cái vui của nhân dân ..., cây kim sợi chỉ của nhân dân còn không đụng đến, huống hồ là tham nhũng tiền triệu, tiền tỷ. Tôi nghĩ như vậy không phải là ảo tưởng. Người cán bộ là Phật tử nên sống như vậy.
Vấn đề nhận thức đúng đắn đã được luận sư Pháp Xứng (Dharmakirti) viết trong phần mở đầu bộ luận Một giọt logic của ông: “Nhận thức đúng đắn mở đầu cho mọi hoạt động thành công”. Nhưng vấn đề không phải chỉ có thế, trong phần nội dung tiếp theo của bài này, điểm độc đáo trong nhận thức luận Phật giáo, tôi muốn đề cập sơ bộ cơ chế của nhận thức luận dẫn chúng ta một cánh không ý thức tiếp xúc với thực tại tối hậu.

Điểm độc đáo ấy có thể toát yếu trong một câu phát biểu ngắn gọn và nổi tiếng của luận sư Vasubandhu (Thế thân) rất thường được trích dẫn: “Con mắt thấy mà không biết, cái tâm biết mà không thấy”.

Viện sĩ Nga TH. Scherbatsky, dịch giả cuốn Nyaya bindu dịch chữ tâm ở đây ra tiếng Anh là the intellect, trên thực tế nó là ý thức, hay thức thứ sáu mà sách Duy Thức thường hay nói(2).

Nhận thức luận Phật giáo phân biệt hai loại nhận thức: Một loại là nhận thức cảm quan, tức là loại nhận thức trực tiếp bằng cảm quan như mắt, tai, mũi... Một loại là nhận thức gián tiếp thông qua khái niệm, phán đoán, suy luận. Điều này được cuốn Nyaya bindu giải thích bằng cơ chế tâm-sinh lý của nhận thức như sau.

Khi con mắt đối diện với một vật, thì trong thời khắc đầu tiên của sát na chỉ hình thành một cảm giác (sách Anh ngữ dịch là sensation), cảm giác đó là một cái gì đó không được xác định. Vì vậy mà Vasubandhu nói: “con mắt thấy mà không biết”. Cảm giác đó chỉ là một sự phản ứng thụ động của con mắt, khi tiếp xúc trực tiếp với đối tượng trong sát na đầu tiên (sát nathời khắc ngắn nhất theo Phật giáo–dịch âm từ chữ Sanskrit ksana). Cảm giác đầu tiên đó tuy là thụ động và không minh bạch nhưng lại vô cùng quan trọng, bởi vì nó tiếp xúc trực tiếp với đối tượng, và là nguồn gốc của mọi nhận thức minh bạch sau này. Sách Duy Thức gọi đối tượng do cảm quan nắm bắt trong sát na đầu tiên là tánh cảnh, nhưng không có sách Duy Thức nào giải thích được tánh cảnh đó đích thực là gì. Điều này cũng dễ hiểu, vì tánh cảnh đó siêu việt ngôn ngữ và khái niệm. 

Sang tới sát na thứ hai, tâm thức mà Vasubandhu nói mới vào cuộc. Nó tự phát biến cảm giác cảm quan thành cảm giác tâm thức mà TH. Scherbatsky dịch bằng từ Anh ngữ mental sensation, sát na thứ hai là bước nhảy vọt tự phát từ cảm giác cảm quan sang cảm giác tâm thức. Vì sao lại có bước nhảy vọt tự phát đó? Phải chăng đó là vì tâm thức của con người muốn biết (nhưng không thấy được) cái đối tượng mà cảm quan tức con mắt thấy là gì. Tâm thức đó là ý thức cũng tức là nghiệp thức, là ý thức mang theo nghiệp của con người. Nghiệp thức của con người biến cảm giác cảm quan thành cảm giác tâm thức, từ đó tâm thức tạo ra hình ảnh và đặt tên cho hình ảnh đó. Thí dụ nếu con mắt thấy vật đối diện là cái bàn thì tâm thức “tưởng tượng” sinh ra hình ảnh cái bàn và đặt tên cho nó là cái bàn. Ở các sát na tiếp theo là các thao tác quen thuộc của tâm thức, tức là xây dựng hình ảnh, đặt tên cho hình ảnh đó. Và nếu đó là hình ảnh ảnh mà con người ưa thích, thì các thao tác tiếp theo sau sẽ là ái (ưa thích), thủ (nắm lấy), hữu (tạo nghiệp) dẫn tới tái sinhluân hồi. Dharmamottra (3) viết: “Khi phán xét thì chúng ta tiếp xúc với một phản xạ nội tại của chúng ta, phản xạ đó không phải là một đối tượng ngoại cảnh, mặc dù chúng ta tin đó là một đối tượng ngoại cảnh”
[Buddhist logic, tr. 221]

Thí dụ con mắt nhìn thấy cái bàn và phán xét đó là cái bàn thì hình ảnh cái bàn chỉ là hình ảnh phản xạ của cái bàn vào trong tâm thức, rồi tâm thức “nắm bắt” hình ảnh cái bàn, đặt tên cho nó là cái bàn, rồi hình ảnh cái bàn đó được tâm thức phóng xạ ra bên ngoài, và tâm thức lại đinh ninh đó là ngoại cảnh, nhưng thật ra là không phải. Đó chỉ là một ảo tưởng của tâm thức mà thôi. Tuy nhiên, khâu mấu chốt là ở chỗ này: Khi cảm giác thuần túy (pure sensation) nhường chỗ cho cảm giác tâm thức (mental sensation) trong sát na thứ hai, khi còn chưa có sự can thiệp của việc tạo hình ảnh, đặt tên, trí nhớ thì cái cảm giác tâm thức thuần túy đó phải chăngtâm thức thuần túy (pure consciousness) mà khi ngồi thiền, chúng ta ước đạt tới như là một tâm trạng sáng suốt, thuần túy, không có xen vào bất cứ một vọng niệm hay tạp niệm nào.

Nhưng, điều đáng tiếc là trừ các bậc Thánh trong đạo Phật ra còn thì không có ai trong chúng ta có thể dừng lại ở cảm giác tâm thức hay tâm trạng thuần túy đó, mà do sức mạnh của nghiệp lôi kéo, chúng ta tạo hình ảnh rồi đặt tên cho hình ảnh đó, phóng xa hình ảnh đó ra bên ngoài, tưởng tượng ra nó là có thật, rồl bị nó chi phối, làm cho tham đắm.

Đó chính là bi kịch của cuộc sống con người, xuất phát từ nhận thức bị chi phối bởi nghiệp. Đúng là tâm thức chúng ta xoay chung quanh nghiệp do chúng ta tạo ra, như là bánh xe xoay chung quanh cái trục vậy. Chúng ta có thể tiếp xúc với thực tại tối hậu qua những sát na đầu tiên của cảm giác cảm quancảm giác tâm thức, nhưng chúng ta đâu có biết. Hơn nữa, cái thực tại tối hậu đó lại là cái siêu việt không gianthời gian, siêu việt ngôn ngữtư duy khái niệm.

Theo Dignaga (Trần Na) thì cái thực tạicảm giác cảm quan nắm bắt là cái độc nhất vô nhị, cái cá biệt tuyệt đối (Scherbatsky dịch ra bằng các từ Anh ngữ the unique, the absolute particular). Dharmakirti còn nhấn mạnh thêm bằng cái độc nhất tuyệt đối đó là cái giới hạn của mọi sáng tạo tổng hợp nghĩa là mọi hoạt động sáng tạo tổng hợp hay nhân tính của tâm thức đều không thể vượt qua giới hạn của cái độc nhất tuyệt đối đó. Thiền học có câu: “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt” chính là để nói đến cái độc nhất tuyệt đối đó (con đường ngôn ngữ bị cắt đứt, hành tướng của tâm cũng diệt), cũng có thể gọi là không thể nghĩ bàn. Và các luận sư Trung Quán, khi bàn tới cái độc nhất tuyệt đối đó thì chỉ nói bằng một sự “im lặng vĩ đại”. Cũng là cảnh giới Niết bàn mà mọi lời bàn đến chỉ có tính chất khiên cưỡng, gượng ép mà thôi. Đó là thời điểm đơn nhất không mở rộng trong không gian, cũng không kéo dài trong thời gian, gọi chung là siêu thời không.

Lạ thật, trong nhận thức của con người, chúng ta vẫn tiếp xúc với thực tại tối hậu đó trong hai sát na đầu tiên của cảm giác cảm quancảm giác tâm thức, nhưng bị nghiệp lực lôi kéo như dòng thác chảy, chúng ta không biết và cũng không dừng lại được ở hai cảm giác đầu tiên đó. Có thể chân lý tối hậu nằm ngay trước mặtcon người vẫn không biết. Mâu thuẫn thật! Bất giác chúng ta suy ngẫm về những câu thơ thiền sâu xa của các Tổ:

Đạo vô ảnh tượng,
Xúc mục phi giao.
Tự phản suy cầu,
Bất cầu tha đắc.
(Thiền sư Nguyễn Nguyên Học đời Lý)

Dịch nghĩa:

Đạo không bóng dáng,
Trước mắt không xa.
Tự quay lại mà tìm,
Đừng cầu ở nơi khác.

Hay là bài thơ của Kiều Trí Huyền đời Lý khi trả lời Thiền sư Đạo Hạnh:

Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm,
Cá trung mãn mục thị thiền tâm.
Hà sa cảnh thị Bồ đề cảnh,
Nghĩ hướng Bồ đề cánh vạn tầm.

Dịch nghĩa:
Âm thanh kỳ diệu bí mật phát ra
Từ hòn ngọc (nội tâm), trong đó khắp cả đều là tâm thiền (sáng suốt).
Khắp cả đều là cảnh giới giác ngộ (Bồ đề), 
Thế mà lại đi tìm giác ngộ (Bồ đề) ở đâu đâu cách xa ngàn dặm./.

Ghi chú: 
(1) Cuốn Nyaya bindu hiện nay chưa có bản dịch tiếng Việt, chúng tôi dùng bản dịch tiếng Anh của viện sĩ Nga TH. Scherbatsky để làm tài liệu giảng dạy ở Học viện PGVN tại TP.HCM. Bản dịch tiếng Anh này căn cứ nguyên bản Sanskrit của Tùng thư Bibliotheka Buddhica. Những trích dẫn Anh ngữ trong bài viết này đều lấy từ bản dịch của TH Scherbatsky

(2) Tất cả từ tiếng Anh trong bài đều dùng lại từ trong hai cuốn “Buddhist Logic” và Nyaya bindu của TH. Scherbatsky, người thông thạo 6 thứ tiếng Châu Âu, cũng như tiếng Sanskrit và tiếng Tây Tạng (Minh Chi). Cuốn “Nyaya bindu” là bản dịch từ nguyên bản Sanskrit là tác phẩm Nhân minh học của luận sư Dharmakirti (Pháp Xứng) kèm theo sớ giải của luận sư Dharmamottra (Pháp Thượng), học trò của Pháp Xứng
(3) Dharmottra (Pháp Thượng) là người viết sớ giải cuốn Nyaya bindu của Dharmakirti.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21)
Để phân tích sâu hơn câu chuyện "Bốn cô vợ" qua lăng kính Phật giáo, tôi sẽ mở rộng các khía cạnh triết lý,
(Xem: 178)
Là một thuật ngữ âm Hán – Việt, có lẽ khó hiểu với một số Phật tử cũng như những người trẻ.
(Xem: 415)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(Xem: 434)
Trong suốt khoảng thời gian mười lăm thế kỷ khi Phật giáo có mặt ở Ấn Độ, đã xuất hiện những quan điểm khác nhau về...
(Xem: 387)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng.
(Xem: 416)
Đức Phật (khoảng năm 450 trước Công nguyên) là người có giáo lý tạo thành nền tảng của truyền thống Phật giáo.
(Xem: 506)
Chỗ ở của người tu thường là nơi thanh vắng, núi rừng. Thời Đức Phật còn tại thế cũng thường ở trong những khu rừng.
(Xem: 446)
Trên con đường tiến hóa của mình, loài người tiến theo hướng càng ngày càng thiện lành hơn.
(Xem: 554)
Đầu đà tăng còn gọi là khổ hạnh tăng. Hán dịch chữ Tăng, không chỉ riêng tăng nhân Phật giáo mà nhằm chỉ vị tăng của các tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
(Xem: 726)
Truyền Đăng sinh năm 1554, họ Diệp, hiệu Vô Tận, biệt hiệu Hữu Môn.
(Xem: 736)
Tính nối kết là một đặc trưng của kinh Pháp Hoa. Ở đây chỉ trích ra một ít câu để làm rõ.
(Xem: 720)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 1012)
Lama Zopa Rinpoche giải thích phương pháp thiền về tính không trong cuộc sống hàng ngày.
(Xem: 1281)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(Xem: 992)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(Xem: 1223)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(Xem: 1330)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(Xem: 1367)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất giatại gia mỗi ngày.
(Xem: 1573)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(Xem: 1412)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(Xem: 1161)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(Xem: 1373)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(Xem: 1322)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(Xem: 1532)
Việt Namquốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(Xem: 1403)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 1713)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(Xem: 1371)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(Xem: 1470)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(Xem: 1632)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(Xem: 1291)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(Xem: 1457)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(Xem: 1433)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(Xem: 1560)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(Xem: 1146)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 1616)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(Xem: 1139)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(Xem: 1183)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(Xem: 1063)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(Xem: 1661)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(Xem: 1403)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(Xem: 1663)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(Xem: 1800)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(Xem: 1949)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(Xem: 2198)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(Xem: 1921)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(Xem: 1816)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 1387)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(Xem: 1414)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1273)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(Xem: 1280)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(Xem: 2310)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(Xem: 1909)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(Xem: 1861)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(Xem: 1787)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(Xem: 1724)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(Xem: 1682)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 2151)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(Xem: 2459)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(Xem: 2230)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant