Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý niệm tung hoành trong mê lộ của tâm

04 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 10569)
Ý niệm tung hoành trong mê lộ của tâm

melocuatam-hoduyNgày nay, giới khoa học đã dần khám phá được bí mật thời gian vốn giả. Lúc giảng hai chữ “nhất thời” trong các kinh, HT.Tịnh Không có lấy ví dụ: Tổ thứ tư của Tịnh tôngPháp Chiếu đại sư trong định từng thông dự pháp hội hơn một vạn người trên núi Ngũ Ðài do Bồ-tát Văn Thù thuyết giảng. Nhiều vị sư khác thời cận đại còn thông dự pháp hội ba ngàn năm trước của Phật Thích Ca. Chứng tỏ thời gian có hay không phụ thuộc vào cảnh giới tịnh hay nhiễm. Tại sao một ngày ở cõi trời thấp nhất bằng 50 năm ở trần gian, phước đức của ai càng lớn càng được lên các tầng trời cao hơn. Ở thế giới Cực lạcvô lượng thọ, vĩnh viễn không có già chết, tức không có thời gian. Không gian cũng không nốt vì người ở nước ấy chỉ cần khởi ý niệm đã có mặt tại một nơi xa hàng trăm ngàn vạn ức cõi. Nhục nhãn thì phải nhờ đến kính hiển vi để xem vi khuẩn, pháp nhãn của Phật thì thấy rõ hạt vi trần nhỏ gấp mấy chục lần so với hạt bụi ở đầu lông trâu. Một ý niệm thiện chúng ta khởi lên lập tức trùm khắp vũ trụ pháp giới. Ý niệm ác thì ngược lại, sẽ góp phần tàn hại ghê gớm đến sự tồn vong của hành tinh xanh. Thế mới biết, nếu không có sự gia trì của Phật và Bồ-tát, nhân thế chẳng thể tồn tại nổi một canh giờ. Cũng vậy, nếu một nửa lượng người trên thế gian cùng đồng thanh tương ứng nhất niệm “A Di Đà Phật” chẳng những đẩy lùi thiên tai đại họa, còn giúp trái đất tăng vọt tuổi thọ mà chẳng mấy người đủ bản lĩnh dám tin.

Nghiệp thức (hình thành từ thân, khẩu, ý) mà chúng ta tạo tác hàng ngày sẽ làm nên cảnh giới trong tương lai. Kẻ gây nghiệp quá nặng, sống như một ông vua hả hê trên nỗi đau của con dân song đêm đêm triền miên ác mộng, ấy là dấu hiệu của địa ngục. Kẻ sát nhân sẽ bị ác mộng bủa vây, cùng cực khổ sở; mơ mà vẫn máu chảy đầu rơi, vẫn đầm đìa mồ hôi, kêu gào vùng vẫy. Lại với kẻ giết mổ súc vật, u mê mãi cuối đời. Hãy tưởng tượng, cái vảy con cá bị gỡ khỏi thân chẳng khác người ta nhổ móng tay mình. Nỗi thống khổ, niềm đau vô hạn của những con vật sẽ hiện lên trong “mê hồn” của chính họ và họ sẽ nhận lấy nơi địa ngục. Cảnh giới kinh hoàng này chính là “duy tâm sở hiện” chứ thần Phật nào đặt ra. Kinh miêu tả người tự tử với bất cứ lý do nào, sau khi chết cứ một tuần cảnh tượng vật vã kia lại tái diễn. Phật dạy: “Tất cả các pháp từ tâm tưởng sanh” - đây là sự thật không thể lùi một tơ tóc nào. Nghiệp thức sinh ra ác mộng. Ác mộng nối nhau thành chuỗi trường đoạn thọ hình vô tận không một phút tỉnh thức, thì chính đó là thật. Ngược lại, chúng ta đang sống sờ sờ đây mà lại là mơ. Những người đoạn dứt kiến tư phiền não, tâm lặng phắc mọi ý niệm, thể nhập vào cảnh giới Phật sẽ thấm thía giấc mộng lớn hồng trần.

Kinh Kim cang, Phật dạy: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”. Lão Tử thấu triệt điều này mới than: “Ta có một mối lo là có thân này”. Biết thân này vốn không phải là ta, thân này sẽ che mất ta mà đâu dễ thoát được. Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh, hóa nghiệp. Đời nay thật nhiều người trách Phật, rằng Ngài vô biên pháp lực, từ bi trải rộng muôn nơi sao thế thái nhân tình lâm ly quá đỗi! Vậy họ đã thực hành Ngũ giớiThập thiện chưa? Phật dạy bố thí, khởi tâm động niệm đều lợi người; Phật dạy đừng sát sanh, đừng tà dâm dối trá, đừng siểm nịnh xan tham, đừng tật đố, đừng cống cao ngã mạn, đừng ác khẩu lưỡng thiệt; Phật dạy hãy yêu thương tất cả mọi người và mọi loài, bởi hiếm ai đời này và hiếm con vật nào trong quá khứ lại không là anh em bà con thân hữu của mình. Chúng ta làm được bao phần trăm lời Phật? Khoa học vốn nặng tính duy vật và… bảo thủ, đến nay ngoài những công trình vĩ đại khiến Phật pháp thêm chói sáng thì chưa hề chứng minh được điều ngược lại. Một giây con người phát ra hàng tỷ ý niệm cực vi, thì còn gì trong tam thiên đại thiên này là ngoại vi của tâm. Mấy tỷ người phát xuất trùng trùng ý niệm bất thiện thì sao không tạo nên đại nạn cho được. Thời nay Phật gọi là ác trược (Thập ácNgũ trược), há chẳng phải lời tiên đoán vĩ đại? Dĩ nhiên, người tu luôn hiểu: kiếp này người ta tạo ác nghiệp song nhiều kiếp lâu xa về trước mình còn mê muội hắc ám hơn nhiều. Thật sự là như vậy. Không bị mắc kẹt trong chấp trước, hơn ai hết, chúng ta hãy nghĩ tốt về người xấu, “A Di Đà Phật” về người xấu để góp sức làm sạch thời không trầm trọng nhiễm ô hiện thời.

Theo “nhẩm tính” của Phật Di Lặc, một giây người phàm phát xuất ra 1.280 triệu ý niệm vi tế (trong lúc khoa học ước khoảng hơn một ngàn). Ấy chính là vọng tưởng điên đảo. Muốn định lại tâm, cách hữu hiệu nhất thường là niệm Phật. Chuyên tu mà nhất là lúc ngồi niệm Phật hoặc vừa lạy Phật vừa nhiếp niệm, câu “Nam-mô A Di Đà Phật” phải sắc bén như lưỡi gươm, phơ sạch tất thảy niệm ác lẫn thiện. Thế mới có câu “Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ”. Nhiều người không hiểu lý này cứ vô tư “bình loạn” chẳng hay lãnh tội báng pháp nghiệp nặng khôn cùng. Không cứ lúc nào, hễ buồn vui tốt xấu ập đến, điều tiên quyếtniệm Phật, nhắc nhở tâm luôn tỉnh giác bình an. Niệm Phật theo vòng, mỗi vòng từ năm đến mười câu nối nhau tai nghe thấu tâm nhận rõ, ấy là “Thậm thâm thượng diệu Thiền”, vọng niệm sẽ dần bị đẩy lùi, bị vùi dập và... tận diệt. Lúc xuống núi, thõng tay vào chợ, lục căn tiếp xúc với sắc thanh hương vị..., tâm không còn mống khởi nghĩa là sống trong cảnh giới thuần tịnh tột cùng pháp giới. Bậc Chánh đẳng Chánh giác chưa cần nói một lời tự thân và thần thái đã toát ra từ trường giáo hóa, đến sát nhân vừa gặp cũng buông dao. Nhiều vị lên núi tịnh tâm, vào nhầm hang hổ nhưng chúng đã nhường lại mà kiếm chỗ khác nương náu. Còn lượng từ bi nhỏ hẹp, tâm bấn loạn gặp thú dữ khắc thành miếng mồi ngon tươi sống. Ta chuyên ăn thịt gì, thân thể sẽ nhiễm mùi và khí huyết của loài đó. Người ghiền thịt cầy thì đến đâu chó cũng tranh nhau sủa tới bến. Nếu khoa học chứng minh được rằng loài vật không hề đau đớn, không hề có lòng oán hận nên không hề quý tiếc mạng sống thì việc người ăn vật hoàn toàn không tạo ra ác nghiệp. Người chết với tâm si mê, sân khuể, ích kỷ hẹp hòi dễ chuyển thành kiếp vật. Khoác thân vật, “linh hồn” ấy sẽ mang nỗi oán hận với người giết nó. Khi người hết phước, ốm yếu què quặt chính là lúc nghiệp báo hiện tiền. Kinh Lăng nghiêm: Người chết thành dê, dê chết thành người; đời đời xoay vần ăn nuốt lẫn nhau. Thế nên trong Hán ngữ, chữ nhục (thịt) mới có bộ khẩu với hai chữ nhân, ý chỉ người ăn người (HT.Tuyên Hóa, Khai thị về ăn chay, Vạn Phật Thành ngày 30-5-1982). Thật thâm thúy tận cùng trời đất.

Có người hỏi: “Nếu ai cũng không giết mổ thì lấy thịt đâu mà ăn, và như vậy thú rừng tràn cả vào thành phố, con người bị diệt vong sao?”. Câu hỏi chưa vào nội dung đã lầm to. “Nếu ai cũng…”. Thử hỏi nhân loại với hàng tỷ người, chỉ trong năm phút thôi liệu có suy nghĩ và hành động đúng như một bậc chân tu hay không. Năm phút với nửa nhân loại không đạt đến từ bi hỷ xả ngang bậc chân tu thì làm gì có “nếu ai cũng”. Đây là câu hỏi thông dụng đối với những người muốn phớt lờ Phật pháp, muốn bác bỏ lý thuyết của Phật và thâm hơn là hủy báng Tam bảo. Nhưng rõ ràng đó là mù quáng. Tào Tháo gây ác nghiệp, đến hơn ngàn năm sau một người dân mổ heo thấy trong gan heo khắc hai chữ “Tào Tháo”. Vậy ra nhân vật “nổi tiếng” này đã khoác thân súc sanh vô số lần. Khoa học đang có trong tay “phép” thôi miên. Chiếc máy vi diệu này không ngờ khiến một người nhớ lại được 84 kiếp quá khứ, như một cuốn phim sống động. Bậc đắc quả A-la-hán thấy được năm trăm kiếp trước, đến quả vị Bồ-tát thì lội ngược về hàng vạn đại kiếp. Để thấy không gì mất đi trong vũ trụ này.

“Học Phật là sự thọ hưởng tối cao của đời người”. Tiên sinh, triết học gia Phương Đông Mỹ (một trong những bậc thầy của HT. Tịnh Không) đã thay Phật nói như vậy. Hành theo đúng lời Phật chẳng những xoay chuyển được vận mạng tại cõi trần mà còn có cơ hội tiếp nhập cõi Thánh. Phật tuyệt nhiên không nói lời hư dối. Trần gian là biển khổ mênh mông, người không chịu bám vào chiếc phao Phật pháp, tất nhiên, càng bơi càng kiệt sức.

Hồ Dụy
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3498)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7356)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4526)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4581)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7354)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2973)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12226)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4005)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3814)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4233)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3701)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5074)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6698)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4015)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4135)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5348)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3793)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4541)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3562)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3937)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4400)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5397)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3849)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3944)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3880)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4533)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3846)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4649)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4216)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6121)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4614)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4957)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4199)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4839)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5674)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3659)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4056)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4597)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5294)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3151)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4768)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4564)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4304)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4751)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4504)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4610)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7235)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5219)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5011)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4603)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5624)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5283)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4165)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6025)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4723)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4886)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5496)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5630)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant