Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý niệm tung hoành trong mê lộ của tâm

04 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 10568)
Ý niệm tung hoành trong mê lộ của tâm

melocuatam-hoduyNgày nay, giới khoa học đã dần khám phá được bí mật thời gian vốn giả. Lúc giảng hai chữ “nhất thời” trong các kinh, HT.Tịnh Không có lấy ví dụ: Tổ thứ tư của Tịnh tôngPháp Chiếu đại sư trong định từng thông dự pháp hội hơn một vạn người trên núi Ngũ Ðài do Bồ-tát Văn Thù thuyết giảng. Nhiều vị sư khác thời cận đại còn thông dự pháp hội ba ngàn năm trước của Phật Thích Ca. Chứng tỏ thời gian có hay không phụ thuộc vào cảnh giới tịnh hay nhiễm. Tại sao một ngày ở cõi trời thấp nhất bằng 50 năm ở trần gian, phước đức của ai càng lớn càng được lên các tầng trời cao hơn. Ở thế giới Cực lạcvô lượng thọ, vĩnh viễn không có già chết, tức không có thời gian. Không gian cũng không nốt vì người ở nước ấy chỉ cần khởi ý niệm đã có mặt tại một nơi xa hàng trăm ngàn vạn ức cõi. Nhục nhãn thì phải nhờ đến kính hiển vi để xem vi khuẩn, pháp nhãn của Phật thì thấy rõ hạt vi trần nhỏ gấp mấy chục lần so với hạt bụi ở đầu lông trâu. Một ý niệm thiện chúng ta khởi lên lập tức trùm khắp vũ trụ pháp giới. Ý niệm ác thì ngược lại, sẽ góp phần tàn hại ghê gớm đến sự tồn vong của hành tinh xanh. Thế mới biết, nếu không có sự gia trì của Phật và Bồ-tát, nhân thế chẳng thể tồn tại nổi một canh giờ. Cũng vậy, nếu một nửa lượng người trên thế gian cùng đồng thanh tương ứng nhất niệm “A Di Đà Phật” chẳng những đẩy lùi thiên tai đại họa, còn giúp trái đất tăng vọt tuổi thọ mà chẳng mấy người đủ bản lĩnh dám tin.

Nghiệp thức (hình thành từ thân, khẩu, ý) mà chúng ta tạo tác hàng ngày sẽ làm nên cảnh giới trong tương lai. Kẻ gây nghiệp quá nặng, sống như một ông vua hả hê trên nỗi đau của con dân song đêm đêm triền miên ác mộng, ấy là dấu hiệu của địa ngục. Kẻ sát nhân sẽ bị ác mộng bủa vây, cùng cực khổ sở; mơ mà vẫn máu chảy đầu rơi, vẫn đầm đìa mồ hôi, kêu gào vùng vẫy. Lại với kẻ giết mổ súc vật, u mê mãi cuối đời. Hãy tưởng tượng, cái vảy con cá bị gỡ khỏi thân chẳng khác người ta nhổ móng tay mình. Nỗi thống khổ, niềm đau vô hạn của những con vật sẽ hiện lên trong “mê hồn” của chính họ và họ sẽ nhận lấy nơi địa ngục. Cảnh giới kinh hoàng này chính là “duy tâm sở hiện” chứ thần Phật nào đặt ra. Kinh miêu tả người tự tử với bất cứ lý do nào, sau khi chết cứ một tuần cảnh tượng vật vã kia lại tái diễn. Phật dạy: “Tất cả các pháp từ tâm tưởng sanh” - đây là sự thật không thể lùi một tơ tóc nào. Nghiệp thức sinh ra ác mộng. Ác mộng nối nhau thành chuỗi trường đoạn thọ hình vô tận không một phút tỉnh thức, thì chính đó là thật. Ngược lại, chúng ta đang sống sờ sờ đây mà lại là mơ. Những người đoạn dứt kiến tư phiền não, tâm lặng phắc mọi ý niệm, thể nhập vào cảnh giới Phật sẽ thấm thía giấc mộng lớn hồng trần.

Kinh Kim cang, Phật dạy: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”. Lão Tử thấu triệt điều này mới than: “Ta có một mối lo là có thân này”. Biết thân này vốn không phải là ta, thân này sẽ che mất ta mà đâu dễ thoát được. Biết thân là huyễn mộng còn khó vứt bỏ huống hồ người chẳng giải ngộ. Nương vào lời Phật mà hành, tự ta mới có thể chuyển mệnh, hóa nghiệp. Đời nay thật nhiều người trách Phật, rằng Ngài vô biên pháp lực, từ bi trải rộng muôn nơi sao thế thái nhân tình lâm ly quá đỗi! Vậy họ đã thực hành Ngũ giớiThập thiện chưa? Phật dạy bố thí, khởi tâm động niệm đều lợi người; Phật dạy đừng sát sanh, đừng tà dâm dối trá, đừng siểm nịnh xan tham, đừng tật đố, đừng cống cao ngã mạn, đừng ác khẩu lưỡng thiệt; Phật dạy hãy yêu thương tất cả mọi người và mọi loài, bởi hiếm ai đời này và hiếm con vật nào trong quá khứ lại không là anh em bà con thân hữu của mình. Chúng ta làm được bao phần trăm lời Phật? Khoa học vốn nặng tính duy vật và… bảo thủ, đến nay ngoài những công trình vĩ đại khiến Phật pháp thêm chói sáng thì chưa hề chứng minh được điều ngược lại. Một giây con người phát ra hàng tỷ ý niệm cực vi, thì còn gì trong tam thiên đại thiên này là ngoại vi của tâm. Mấy tỷ người phát xuất trùng trùng ý niệm bất thiện thì sao không tạo nên đại nạn cho được. Thời nay Phật gọi là ác trược (Thập ácNgũ trược), há chẳng phải lời tiên đoán vĩ đại? Dĩ nhiên, người tu luôn hiểu: kiếp này người ta tạo ác nghiệp song nhiều kiếp lâu xa về trước mình còn mê muội hắc ám hơn nhiều. Thật sự là như vậy. Không bị mắc kẹt trong chấp trước, hơn ai hết, chúng ta hãy nghĩ tốt về người xấu, “A Di Đà Phật” về người xấu để góp sức làm sạch thời không trầm trọng nhiễm ô hiện thời.

Theo “nhẩm tính” của Phật Di Lặc, một giây người phàm phát xuất ra 1.280 triệu ý niệm vi tế (trong lúc khoa học ước khoảng hơn một ngàn). Ấy chính là vọng tưởng điên đảo. Muốn định lại tâm, cách hữu hiệu nhất thường là niệm Phật. Chuyên tu mà nhất là lúc ngồi niệm Phật hoặc vừa lạy Phật vừa nhiếp niệm, câu “Nam-mô A Di Đà Phật” phải sắc bén như lưỡi gươm, phơ sạch tất thảy niệm ác lẫn thiện. Thế mới có câu “Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ”. Nhiều người không hiểu lý này cứ vô tư “bình loạn” chẳng hay lãnh tội báng pháp nghiệp nặng khôn cùng. Không cứ lúc nào, hễ buồn vui tốt xấu ập đến, điều tiên quyếtniệm Phật, nhắc nhở tâm luôn tỉnh giác bình an. Niệm Phật theo vòng, mỗi vòng từ năm đến mười câu nối nhau tai nghe thấu tâm nhận rõ, ấy là “Thậm thâm thượng diệu Thiền”, vọng niệm sẽ dần bị đẩy lùi, bị vùi dập và... tận diệt. Lúc xuống núi, thõng tay vào chợ, lục căn tiếp xúc với sắc thanh hương vị..., tâm không còn mống khởi nghĩa là sống trong cảnh giới thuần tịnh tột cùng pháp giới. Bậc Chánh đẳng Chánh giác chưa cần nói một lời tự thân và thần thái đã toát ra từ trường giáo hóa, đến sát nhân vừa gặp cũng buông dao. Nhiều vị lên núi tịnh tâm, vào nhầm hang hổ nhưng chúng đã nhường lại mà kiếm chỗ khác nương náu. Còn lượng từ bi nhỏ hẹp, tâm bấn loạn gặp thú dữ khắc thành miếng mồi ngon tươi sống. Ta chuyên ăn thịt gì, thân thể sẽ nhiễm mùi và khí huyết của loài đó. Người ghiền thịt cầy thì đến đâu chó cũng tranh nhau sủa tới bến. Nếu khoa học chứng minh được rằng loài vật không hề đau đớn, không hề có lòng oán hận nên không hề quý tiếc mạng sống thì việc người ăn vật hoàn toàn không tạo ra ác nghiệp. Người chết với tâm si mê, sân khuể, ích kỷ hẹp hòi dễ chuyển thành kiếp vật. Khoác thân vật, “linh hồn” ấy sẽ mang nỗi oán hận với người giết nó. Khi người hết phước, ốm yếu què quặt chính là lúc nghiệp báo hiện tiền. Kinh Lăng nghiêm: Người chết thành dê, dê chết thành người; đời đời xoay vần ăn nuốt lẫn nhau. Thế nên trong Hán ngữ, chữ nhục (thịt) mới có bộ khẩu với hai chữ nhân, ý chỉ người ăn người (HT.Tuyên Hóa, Khai thị về ăn chay, Vạn Phật Thành ngày 30-5-1982). Thật thâm thúy tận cùng trời đất.

Có người hỏi: “Nếu ai cũng không giết mổ thì lấy thịt đâu mà ăn, và như vậy thú rừng tràn cả vào thành phố, con người bị diệt vong sao?”. Câu hỏi chưa vào nội dung đã lầm to. “Nếu ai cũng…”. Thử hỏi nhân loại với hàng tỷ người, chỉ trong năm phút thôi liệu có suy nghĩ và hành động đúng như một bậc chân tu hay không. Năm phút với nửa nhân loại không đạt đến từ bi hỷ xả ngang bậc chân tu thì làm gì có “nếu ai cũng”. Đây là câu hỏi thông dụng đối với những người muốn phớt lờ Phật pháp, muốn bác bỏ lý thuyết của Phật và thâm hơn là hủy báng Tam bảo. Nhưng rõ ràng đó là mù quáng. Tào Tháo gây ác nghiệp, đến hơn ngàn năm sau một người dân mổ heo thấy trong gan heo khắc hai chữ “Tào Tháo”. Vậy ra nhân vật “nổi tiếng” này đã khoác thân súc sanh vô số lần. Khoa học đang có trong tay “phép” thôi miên. Chiếc máy vi diệu này không ngờ khiến một người nhớ lại được 84 kiếp quá khứ, như một cuốn phim sống động. Bậc đắc quả A-la-hán thấy được năm trăm kiếp trước, đến quả vị Bồ-tát thì lội ngược về hàng vạn đại kiếp. Để thấy không gì mất đi trong vũ trụ này.

“Học Phật là sự thọ hưởng tối cao của đời người”. Tiên sinh, triết học gia Phương Đông Mỹ (một trong những bậc thầy của HT. Tịnh Không) đã thay Phật nói như vậy. Hành theo đúng lời Phật chẳng những xoay chuyển được vận mạng tại cõi trần mà còn có cơ hội tiếp nhập cõi Thánh. Phật tuyệt nhiên không nói lời hư dối. Trần gian là biển khổ mênh mông, người không chịu bám vào chiếc phao Phật pháp, tất nhiên, càng bơi càng kiệt sức.

Hồ Dụy
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 173)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 203)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 225)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 291)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 206)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 255)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 353)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 315)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 304)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 383)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 615)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 477)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 582)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 754)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 839)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 858)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 845)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 737)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 712)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 815)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 834)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 942)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 718)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 618)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 715)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 826)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 718)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 709)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 825)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 852)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 827)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 902)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 887)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1087)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 953)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1676)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 956)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1215)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1117)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1124)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1281)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1562)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2037)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1097)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1098)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1065)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1100)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1536)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1287)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1294)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1027)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant