Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bước Đầu Khảo Sát Cụm Từ "Phụng Chiếu Dịch"

11 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 7005)
Bước Đầu Khảo Sát Cụm Từ "Phụng Chiếu Dịch"

Bước Đầu Khảo Sát Cụm Từ "Phụng Chiếu Dịch"
Trong Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh

Là một Tăng sĩ theo truyền thống Phật giáo Bắc truyền, việc tụng kinh dường như là quán lệ trong thời khóa tu tập của chúng tôi. Tùy theo môn quy của từng chùa và thời khóa tu học ở mỗi mùa trong năm mà có sự thay đổi về các bộ kinh được đọc, tụng. Theo lệ thường, bất kể một bộ kinh nào, khi tụng thì sẽ tụng từ những dòng đầu của bản kinh cho đến những chữ cuối cùng. Một hôm, tôi thoáng phân tâm giữa những trang kinh, khi chợt nhận ra ba chữ nhỏ ở dưới tiêu đề bản kinh mà tôi đang trì tụng. Ba chữ nhỏ đó là: phụng chiếu dịch (奉詔譯).

dieu_phap_lien_hoa_kinh__hinh_nay_lam_hinh_chinh

Cần phải thấy, cụm từ này chỉ xuất hiện trong các kinh thuộc hệ Bắc truyền. Chúng tôi không phát hiện cụm từ tương đương trong văn hệ Pali so với những bản kinh tương ứng. Bằng phương pháp tiếp cận thống kê, tỉ giảo, cụm từ phụng chiếu dịch trong Đại chính tân tu Đại tạng kinh (ĐCTTĐTK) đã mở ra nhiều điều đáng suy nghĩ về những dịch phẩm kinh điển Trung Hoa, cũng như mức độ khả tín của những bản kinh được phiên dịch theo xu hướng này.

Vài nét về kinh văn do phụng chiếu dịch

Căn cứ trên Đại tạng kinh Đại chính tân tu, chúng tôi đã khảo sát hai mươi sáu bộ loại kinh điển từ A-hàm bộ (阿含部) cho đến Nghi tợ bộ (疑似部) thứ hai mươi sáu. Trong tổng số 2.372 tác phẩm nằm trong 56 tập Đại chính tạng được khảo sát, số lượng tác phẩm do phụng chiếu dịch lên đến 625 tác phẩm. Ở đây, sở dĩ gọi là tác phẩm vì có thể đó là kinh, luật, luận, sử truyện, thần chú… chứ không hẳn thuần túykinh điển. Thực ra, con số tác phẩm khảo sát có thể lớn hơn do quy cách bổ sung ABCD sau mỗi đơn vị tác phẩm, do trong một tác phẩm có nhiều quyển khác nhau; nhưng xét trong toàn bộ ĐCTTĐTK, số lượng tăng thêm đó không ảnh hưởng nhiều đến mục đích khảo sát.

Những bộ kinh trong giai đoạn sơ kỳ thường được các đại dịch giả tự dịch, không phải do phụng chiếu. Đơn cử, trong 151 tác phẩm kinh A-hàm, chỉ có 10 kinh văn do phụng chiếu dịch; ngay cả bộ Bản duyên, tuy có 68 kinh nhưng chỉ có 12 kinh được phụng chiếu dịch. Với một số bộ loại điển tịch Phật giáo tưởng chừng chỉ do chư Tăng phiên dịch hay trước tác như Luật bộ, thì ở đây, trong số 83 tác phẩm thuộc Luật bộ thì có 27 tác phẩm do phụng chiếu dịch và trước tác. Nếu như các chiếu chỉ này đều là sự thật, thì xem ra, sự quan tâm của các vua chúa Trung Hoa rất thâm thiết đối với thư tịch Phật giáo.

Đặc biệt, trong những tác phẩm dài nhất được phiên dịch do ngài Huyền Tráng phụng chiếu dịch, đó là tác phẩm Đại bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh (大般若波羅蜜多經), gồm 600 quyển, xuất hiện ở tập 5-6-7 thuộc Đại chính tạng. Theo tự thuật, ngài Huyền Tráng đã mất hết 3 năm 10 tháng và 23 ngày để hoàn thành đại tác phẩm này, một nỗ lực được hậu học hằng ngưỡng vọng(1). Đại tác phẩm này đã được Hòa thượng Thích Trí Nghiêm cùng chư tôn đức hữu tâm trong nhóm dịch thuật Đại tạng kinh Linh Sơn Pháp Bảo phiên dịch ra tiếng Việt. Bên cạnh đó, một điều đáng lưu ý, trong 16 tác phẩm thuộc hệ Pháp Hoa, chỉ có một bộ Diệu pháp liên hoa kinh do Cưu Ma La Thập phụng chiếu dịch(2). Tác phẩm này đã được các tác gia như Đoàn Trung Còn, Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Hòa thượng Trí Quang, Hòa thượng Nhất Hạnh phiên dịch ra tiếng Việt.

Trên phương diện ngược lại, sự quan tâm đến kinh điển của các vua chúa Trung Hoa thể hiện qua chiếu chỉ tập trung rất cao ở Mật giáo bộ. Trong bộ loại này, hơn phân nửa của toàn bộ tác phẩm được phiên dịch đều phát xuất từ chiếu chỉ. Vì trong tổng số 572 tác phẩm của Mật giáo thì có đến 321 tác phẩm do phụng chiếu dịch, đặc biệt, có những tác phẩm rất ngắn, đôi khi ngắn hơn cả nội dung chiếu chỉ thông thường của vua chúa Trung Hoa(3). Mặt khác, nếu cho rằng các tác phẩm thần chú trong Mật giáo bộ được phiên dịch từ một ngôn ngữ khác ngoài Trung Hoa, thì sự nghi ngờ bỗng hé lộ khi chúng tôi gặp phải những tác phẩm thần chú chứa nội dung hệ Can-Chi như Giáp, Ất, Bính, Đinh…xuất hiện trong tác phẩm: Phật thuyết bắc đẩu thất tinh diên mệnh kinh (佛 說 北 斗 七 星 延 命 經)(4). Đặc biệt, có những thần chú do chính Bà-la-môn (Brāhmaṇa) soạn như thần chú: Thất diệu nhương tai quyết quyển thượng (七 曜 攘 災 決 卷 上), do Bà-la-môn Tăng Kim Câu Trá soạn tập(5). Những tác phẩm này đều nằm trong hệ thống Mật giáo bộ, tập 21, đáng lẽ nơi thích hợp của những tác phẩm này phải ở Nghi tợ bộ, tập 85. Mật giáo bộ Trung Hoa còn bộc lộ ra nhiều điều rất khác biệt, chúng tôi sẽ đề cập trong một chuyên khảo khác.

Các tác gia nổi tiếng về phiên dịch kinh điển từ ngài An Thế Cao, Tăng Già Đề Bà, Cưu Ma La Thập, Chân Đế cho đến ngài Huyền Tráng, Nghĩa Tịnh, Bất Không… đều đóng góp những dịch phẩm kinh điển Đại thừa rất quan trọng, được học giới ghi nhậnđánh giá cao, dù đó là những dịch phẩm do phụng chiếu.

Điều đáng chú ý, trong số những tác gia phiên dịchmột lượng tác phẩm khá lớn, bao gồm nhiều thể loại, đó là tác gia Thi Hộ, một vị Tăng dưới thời Triệu Tống (960 - 1279), phiên dịch rất nhiều tác phẩm thuộc loại phụng chiếu dịch. Theo khảo sát, những tác phẩm do Thi Hộ phụng chiếu dịch lên đến 103 tác phẩm, bao gồm 10 thể loại, từ A-hàm, Bổn duyên, cho đến Luật bộ. Nếu tính về số lượng tên tác phẩm, thì chỉ riêng số lượng phụng chiếu do Thi Hộ dịch, lớn hơn cả số lượng tên tác phẩm trong sự nghiệp dịch thuật của ngài Huyền Tráng(6). Trong những dịch phẩm của Thi Hộ, đáng chú ý là Mật bộ, có tới 48 tác phẩm phụng chiếu dịch, trong tổng số 321 tác phẩm thần chú được các đại sưthẩm quyền về Mật giáo phụng chiếu dịch.

Theo lịch sử Trung Quốc, từ khi Tống Thái Tổ lên ngôi, đã định ra một hệ thống hành chính khá vững chắc, mang hình thức trung ương tập quyền. Bất cứ địa phương nào, có điều gì hay, lạ, đều phải tiến về kinh đô. Trường hợp xuất hiện các vị Phạm tăng trong giai đoạn này cũng nằm trong bối cảnh đó. Trong Tống cao tăng truyện quyển 3 chép(7), có Sa-môn Pháp Tiến ở phủ Hà Trung am tường giáo lý hiển mật, đã cầu thỉnh ngoại nhân Ấn ĐộTam tạng Pháp Thiên dịch kinh Vu Bồ Tân (于蒲津) (sic). Các châu, phủ làm biểu dâng lên, vua duyệt ymọi người đều theo đó! Vua ban chiếu lập Dịch Kinh Viện (譯經院) tại chùa Thái Bình Hưng Quốc và tiếp tục ban chiếu tìm kiếm Phạm tăng các nơi. Ngài Thi Hộ đã đến và làm việc tại nơi này trong bối cảnh đó.

Mặc dù vậy, theo luận án tiến sĩ của Vương Văn Nhan, bảo vệ tại Đài Loan (Trung Quốc) năm 1983 đã xác quyết rằng, đến thời nhà Tống, sự nghiệp phiên dịch kinh điển của Phật giáo đang đi vào thời kỳ suy vi(8). Theo ông, “khi bàn về lịch sử dịch kinh tại Trung Quốc, ta có thể bảo là đã kết thúc vào khoảng năm Trinh Quán đời Đường, tưởng cũng không có gì là quá đáng”(9). Như vậy, theo lịch sử, Thi Hộ đến Trung Hoa vào thời kỳ Tống Thái Tông và đã cống hiến nhiều dịch phẩm kinh điển, gồm nhiều thể loại quan trọng trong Phật giáo. Chỉ riêng trong số phụng chiếu dịch, Thi Hộ đã phiên dịch lên đến 103 tác phẩm gồm nhiều thể loại thư tịch quan trọng, có thể định hướng tư tưởng của Phật giáo nhiều thời kỳ; đây là một nghi vấn lớn về tính chân xác của những dịch phẩm từ tác gia Thi Hộ theo khảo sát của chúng tôi.

Những kiến giải ban đầu về các dạng thức phụng chiếu

Phụng chiếu dịch, nghĩa là tuân theo chiếu chỉ của nhà vua để dịch kinh điển. Chiếu, tức là chiếu thư. Tần Thủy Hoàng bản kỷ trong sách Sử ký: “Mệnh là chế, lệnh là chiếu”. Sách Hán Thư, truyện của Đổng Trọng Thư: “Bệ hạ mở đức, hạ minh chiếu” (詔, 詔 書 也. 史 記 秦 始 皇 紀: “命 為 制, 令 為 詔, 漢 書 董 仲 舒 傳: “陛 下 登 德 音, 下 明 詔”)(10). Chiếu là một văn bản hành chính quan trọng bậc nhất trong xã hội phong kiến. Phụng chiếu vua để dịch kinh là một hiện tượng rất đặc thù trong lịch sử phát triển của Phật giáo tại Trung Hoa, cần được liên hệ mở rộng.

Với một đất nước có truyền thống văn hóa được xây dựng căn bản trên tư tưởng Nho gia, thế nên, mọi trật tự vận hành của xã hội đều bị chi phối chặt chẽ bởi hệ thống tư tưởng này. Với Nho gia, từ lý thuyết Thiên mệnh mang tính nhân văn của Khổng Tử(11), đến thời kỳ hậu Tần, qua những chỉnh lý bổ sung của Đổng Trọng Thư, thì quan điểm xem vua là con Trời là quan điểm định hình xuyên suốt mọi triều đại: “hoàng đế là con của Trời, nên gọi là Thiên tử”, hay “Trời sinh ra dân, cho cái tính có thiện chất mà chưa có thể thiện được, nên lập ra vua để làm cho thiện, ấy là ý Trời(12). Với thiết chế của xã hội phong kiến Trung Quốc nói chung, vua có quyền uy tối thượng, tất cả mọi hoạt động của tổ chức, cá nhân đều nằm trong sự chi phối của quyền uy này, kể cả Phật giáo.

Phật giáo đến Trung Quốc vào những năm đầu Tây lịch, tuy nhiên, thư tịch kinh điển đến thời nhà Đường vẫn chưa đầy đủ. Đó cũng là một trong những cơ sở để ngài Huyền Tráng cất bước Tây du thỉnh kinh. Đọc lại những dòng tâm sự của ngài Huyền Tráng đủ thấy rõ điều này: Thần, Sa-môn Huyền Tráng, nhập đạo thiếu thời, may gặp quang huy, quốc gia hưng vận, chí thành cầu đạo, tham học đạo tràng. Chỉ hiềm một nỗi, kinh văn giáo điển, của đạo Bồ-đề, vẫn chưa hoàn bị. (沙 門 玄 奘 言. 名 早 預 玄 門. 幸 逢 昌 運. 希 聞 至 道. 遊 心 法 莚. 每 恨 正 覺 遺 文 尚 未 詳 備)(13). Từ đây, có thể thấy, nỗ lực dịch thuật kinh điển không chỉ là trách vụ của những người xuất gia mà bất cứ ai hữu tâm nghĩ đến sự nghiệp phát triển Phật giáo, không loại trừ những bậc vua chúa có niềm tinchí nguyện phụng sự Tam bảo. Đây là một trong những lưu ý quan trọng để thấy rằng, tuy cùng một hiện tượng phụng chiếu dịch kinh, nhưng đằng sau hiện tượng ấy, ẩn chứa nhiều ý nghĩa khác biệt.

Thứ nhất, việc ban chiếu như là một thói quen trong văn bản của hoàng gia, trên phương diện dịch kinh thì sự ban chiếu mang nghĩa như là một sự cầu thỉnh, nhờ cậy. Vì lẽ, các bậc vua chúa Phật tử vì mong muốn góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh điển Phật giáo, xuất phát từ lòng thành, nên cậy nhờ các bậc cao tăng dịch thuật kinh điển, qua hình thức ban chiếu dịch kinh. Ở đây, mặc dù thông qua hình thức chiếu chỉ, nhưng thực sự đằng sau đó là tấm lòng phụng đạo của các vị vua thâm tín Tam bảo. Đọc Đường Thái Tông ban chiếu phúc đáp biểu tạ lễ của Huyền Tráng pháp sư (太 宗 文 皇 帝 報 玄 奘 法 師 謝 表 敕 書)(14) mới thấy được sự cung, khiêm của một bậc vua chúa: Trẫm đây, tài năng ít ỏi, ngữ lý chưa thông, cho đến kinh văn, lại càng hạn chế. Bài tựa hôm trước, ngữ khí vụng về, lòng chỉ e rằng, mực lem sách quý. Gạch đá hoang sơ, há cùng châu ngọc. Bất chợt nhận thư, thừa ân tán thán. Nay trẫm xét suy, lợi ích đời sau, không nên xưng tán. Không quá lao tâm, không nên thâm tạ. (朕 才 謝 珪 璋.言 慚 博 達. 至 於內 典. 尤 所 未 閑. 昨 製 序 文. 深 為 鄙 拙. 唯 恐 穢 翰 墨 於 金 簡. 標 瓦 礫 於 珠 林. 忽 得 來 書. 謬 承 褒 讚. 脩 躬 省 慮. 彌 益 厚 顏. 善 不 足 稱. 空 勞 致 謝)(15). Lịch sử của Cưu Ma La Thập cũng cho thấy rằng, ngài được vua Diêu Hưng phong chức Quốc sư, biệt đãi và cung thỉnh dịch nhiều bộ kinh Đại thừa quan trọng(16); Lương Võ Đế ưu đãi Tăng Già Bà La; Võ Tắc Thiên ưu đãi Địa Bà Ha La(17)… là những minh chứng quan trọng về tấm lòng phụng đạo của các vua chúa Trung Hoa. Thẩm sát tâm thế dịch kinh của hai vị Đại sư lỗi lạc của Phật giáoCưu Ma La Thập và Huyền Tráng, mới thấy được mặc dù dịch phẩm được ghi là phụng chiếu, nhưng cụm từ đó chỉ phản ánh dấu vết của một thói quen mang tính văn bản hành chánh trong xã hội phong kiến, chứ không mang tính cách áp đặt, sai sử hoặc chỉ định. Hơn thế nữa, sự bảo trợ về tất cả mọi mặt liên quan đến công việc dịch kinh của các triều đại Trung Hoa đã đồng xác chứng rằng, dù được ghi là phụng chiếu dịch, nhưng thực chất của dịch phẩm, là kết tinh của tinh thần bảo trợủng hộ Phật pháp.

Thứ hai, xuất phát từ cung cách hành xử truyền thống, và do hạn chế về nhận thức Phật học, đôi khi vua vẫn xem mình là ngôi vị tối cao vô thượng, nên đã ban chiếu, với tư cách chỉ đạo việc dịch kinh. Phụng chiếu dịch trong nghĩa này mang tính chất chấp hành sự chỉ định, do vua sai bảo. Đọc lời văn thống thiết của ngài Huyền Tráng trong việc cầu thỉnh Đường Thái Tông viết lời giới thiệu, mới thấy rằng đôi khi vua vẫn yêu cầu chư Tăng dịch kinh: Tháng hai năm ngoái, phụng chiếu phiên dịch, nay đã hoàn thành, phân làm năm bộ, năm mươi tám quyển, sao chép đặc thù. Nhân dịp tôn tượng, của chùa Hoằng Phúc, vừa kịp hoàn thành, Thánh thượng thân lâm, khai quang điểm nhãn. Kinh điển vừa phiên, nhân duyên ngẫu hợp. Ngưỡng nguyện bệ hạ, khơi ngọn bút thần, mẫu mực xét soi, vài dòng thẩm định, tựa Minh Tông Cực.( 去 年 二 月, 奉 詔 翻 譯, 今 見 成 五 部, 總 五 十 八 卷. 繕 寫 如 別, 竊 見 弘 福 寺 尊 像 初 成. 聖 上 親 降 鑾 輿. 開 青 蓮 之 目. 今 經 論 新 翻. 敢 緣 斯 義 . 伏 願 陛 下 曲 垂 神 翰 . 表 發 經 題 . 親 紆 玄 藻 . 序 明 宗 極)(18). Đọc chiếu thư phúc đáp của Đường Thái Tông, có thể nhận ra tính chất chỉ đạo ẩn chứa trong vẻ khiêm hạ, nhu mì: Trẫm vốn sở học vụng về, tâm tư thô lậu, việc trước mắt còn vướng mê lầm, sao với được uyên thâm giáo điển? Hãy suy xét kỹ càng thấu đáo, khi thỉnh cầu bình phẩm kinh văn, vì đó chẳng phải là chỗ hiểu biết của ta. Hơn nữa, ông là người soạn Tây Vức Ký vừa xong, nên tự mình mở ra xem vậy. Chiếu cho Trang Hòa thượng. Triều đình phúc đáp Huyền Tráng pháp sư. (朕 學 淺 心 拙. 在 物 猶 迷. 況 佛 教 幽 微. 豈 孰 能 仰 測. 請 為 經 題. 非 己 所 聞. 又 云 新 撰 西 域 記 者. 當 自 披 覽. 敕 奘 和 尚 (內 出 與 玄 奘 法 師)(19).

Trong sự nghiệp phiên dịch kinh điển, các đại dịch giả nổi tiếng của Phật giáo như Cưu Ma La Thập, Huyền Tráng… đều có những dịch phẩm được hoàn thành trong bối cảnh này. Ngay như, bài kinh Xưng tán Đại thừa công đức(20) do Huyền Tráng phụng chiếu dịch, thuyết minh 37 nghĩa của chữ Đại thừa, mang âm hưởng nghiêng về một sự biện giải hơn là mang tính thuần túy kinh văn. Thậm chí, như ngài Nghĩa Tịnh, cũng phụng chiếu dịch một dịch phẩm Mật giáo nhằm chữa bệnh trĩ mang tên: Phật thuyết liệu trĩ bệnh kinh(21). Đặc biệt, việc thực hiện theo yêu cầu của vương quyền, theo chiếu chỉ, được thể hiện rõ nét nhất với những cư sĩ và ngay cả Tăng nhân phiên dịchliên hệ với hai cơ quan quan trọng của chế độ phong kiến, đó là Quang Lộc Tự (光 祿 寺) và Hồng Lô Tự (鴻 臚 寺). Xuyên suốt ĐCTTĐTK, có thể nhận ra nhiều dịch phẩm kinh điển được hoàn thànhliên hệ đến sự chỉ đạo từ hai cơ quan này. Tiêu biểu cho các dịch giả thực hiện việc dịch kinh trong bối cảnh đó là các dịch giả như Thi Hộ, Pháp Hiền, Pháp Thiên…

Thứ ba, mong dịch phẩm được số đông chấp nhận nên phụng chiếu dịch. Điều này dễ nhận ra trong một số tác phẩm thuộc Mật giáo bộ. Ở đây, có những bài chú còn nguyên dấu vết về sự pha tạp giữa yếu tố tôn giáo ngoại laitín ngưỡng bản địa của Trung Quốc. Đơn cử, bài chú Phật thuyết bắc đẩu thất tinh diên mệnh kinh (佛說北斗七星延命經)(22), ngay dòng phụ đề đầu tiên đã cho thấy có một vị Bà-la-môn tên là Tăng Tương, đã đem chú này cho cả triều nhà Đường thọ trì (婆羅門僧將到此經唐朝受持); điều đó đã cho thấy nhận thức về Phật giáo trong một bộ phận hoàng thân chưa hẳn là chánh kiến Phật giáo. Không những thế, ngay bài chú La khẩu phược noa thuyết cứu tiểu nhi tật bệnh kinh(23) do Pháp Hiền phụng chiếu dịch chứa đựng những nội dung đặc dị. Chẳng hạn, trong lễ phẩm cúng chữa bệnh cho trẻ con, ngoài các vật dụng thông thường còn có cả rượu, thịt (及白色飲食乃至酒肉等). Và, trong bài chú Phật thuyết thánh diệu mẫu đà-la-ni kinh(24) do Pháp Thiên phụng chiếu dịch, những yếu tố kinh văn thuần túy Trung Hoa như Hỏa tinh, Thủy tinh, Mộc tinh, Kim tinh, cho đến các vì sao như La Hầu, Kế Đô, Thủy Diệu… đều xuất hiện trong nội dung bài chú.

Từ những cứ liệu vừa dẫn, đã cho thấy rằng, theo quán lệ, khi một tác phẩm được dịch do yêu cầu của nhà vua thì được nhiều người tin theoủng hộ. Ở đây, không loại trừ nghi vấn, những bài chú này được thêm vào trong những giai đoạn về sau; và để tăng thêm tính thuyết phục, tăng giá trị của tác phẩm, có tác giả ẩn danh đã gắn thêm thuộc tính phụng chiếu dịch, nhằm làm cho tác phẩm dễ dàng tồn tại, lưu thông trong niềm tin của số đông.

Tính chất phụng chiếu trong liên hệ giới luật

Giới luật Phật giáo phát triển tại Trung Hoa có lịch sử muộn hơn so với hệ thống kinh tạng, song lại phát triển mạnh mẽ và trở thành một tông phái do ngài Đạo Tuyên thành lập. Trong những bộ luật được lưu hành tại Trung Hoa có thể kể đến như: Thập tụng luật, do công lao của Phất Nhã Đa La, Đàm Ma Lưu Chi trùng tuyên, Cưu Ma La Thập dịch và Tỳ Ma La Xoa hiệu đính; Tứ phần luật do Phật Đà Da Xá trùng tuyên và Trúc Phật Niệm dịch; Ma-ha tăng kỳ luật do Pháp Hiển dịch; Ngũ phần luật do Pháp Hiển đem về từ Tích Lan và do Phật Đà Thập, Trí Thắng và Trúc Đạo Sinh hợp dịch. Trong những bộ luật vừa dẫn, Tứ phần luật trở thành bộ luật căn bảnphổ biến trong sinh hoạt Phật giáo tại Trung Hoa ở nhiều thời kỳ.

Theo Tứ phần luật, bản thể của Tăng là thanh tịnhhòa hợp, pháp Yết-ma đúng nghĩa tác thành sự thanh tịnhhòa hợp của Tăng-già. Mọi thể thức sinh hoạt Phật giáo từ nhỏ nhất như bỏ các y hư, cũ cho đến việc lớn như tổ chức xuất gia cho người hay truyền thọ giới pháp… đều phải nương dựa vào pháp Yết-ma để thành tựu. Tăng có được sự hòa hiệp là do sự thống nhất quyết định; và quyết định ấy được ban hành bằng mệnh lệnh mà tất cả thành phần của Tăng phải tuân theo. Làm thế nào để có sự thống nhất ấy, là chức năng của Yết-ma(25). Trong tất các mọi phép tắc Yết ma, câu hỏi: Người chưa thọ cụ túc giới đã ra chưa? luôn có mặt. Sự thỏa mãn của điều kiện đó đã đồng thời xác tín rằng, việc của Tăng là do Tăng tự quyết. Tăng chỉ làm những việc đã được tập thể Tỳ-kheo Tăng nhất trí, thông qua. Diễn dịch đơn giản có thể hiểu, Tăng chỉ làm việc do Tăng sai. Tăng sẽ không vì bất cứ ai yêu cầu, chỉ đạo, áp đặt mà thực hiện việc của Tăng, vì như thế sẽ trái với căn bản giới luật.

Câu chuyện Đức Phật im lặng từ canh này qua canh khác mà không cử hành lễ Uposatha chỉ vì có một kẻ giả dạng Tăng nhân hiện diện trong số đông Tăng chúng. Mãi đến khi Tôn giả Maha Moggallana nắm lấy cánh tay kẻ đó, kéo ra ngoài và đóng cửa lại thì Đức Phật mới cử hành lễ Uposatha(26), là tư liệu sớm nhất về chuẩn mực Người chưa thọ cụ túc giới đã ra trong khi tác pháp tiến hành việc của Tăng.

Trong quá trình phát triển của Phật giáo tại một số quốc gia, khu vực, thỉnh thoảng sự va đập giữa những chuẩn mực giới luật của Phật giáo và hệ giá trị đạo đức, luân lý của quốc gia đó đôi khi vẫn xảy ra. Ở Trung Hoa, sự va chạm giữa quan điểm thần dân phải lễ kính Thiên tử với quan niệm xuất trần thượng sĩ của bậc xuất giatrường hợp tiêu biểu. Với những nỗ lực thấm đẫm trí tuệ của ngài Huệ Viễn, thể hiện trong tác phẩm Sa-môn bất kính vương giả luận(27) khi minh giải rằng, người xuất gia là khách thong dong phương ngoại, tâm, hình chẳng lụy việc đời, chỉ lấy việc hóa đạo làm căn bản (出 家 則 是 方 外 之 賓. 跡 絕 於 物. 其 為 教 也)(28) , đã tìm được tiếng nói chung trong ứng xử giữa quân vương và hàng Thích tử. Vì lẽ, sau khi đọc những kiến giải về vai trò hàng tại gia và phẩm vị của hàng xuất gia, Hàn Huyền đã bỏ chiếu lệnh phi pháp đó.

Từ ba dạng thức phụng chiếu được lý giải ở phần hai, so sánh với căn bản giới luật vừa nêu dẫn; quy chiếu vào việc ban chiếu cho Tăng nhân dịch kinh của các triều đại phong kiến Trung Quốc, đã bộc lộ ra nhiểu điểm đặc thù.

Thứ nhất, việc ban chiếu đúng như chiếu chỉ, là văn bản chính thức của triều đình, nhằm chỉ đạo việc dịch kinh; thì căn cứ vào căn bản giới luật, đó là một việc làm phi luật, phi pháp. Không thể nhân danh cứu cánh để biện minh phương tiện. Phương tiện, là việc ra chiếu không như pháp, thì cứu cánh, là những dịch phẩm kinh điển, sẽ ẩn chứa nhiều rủi ro, bất cập về nội dung. Đó là chưa xét đến những trường hợp vua chúa có thể can thiệp sâu hơn vào dịch phẩm theo chủ ý của mình. Một vài bộ kinh đang bị nghi ngờ và vài Mật chú do phụng chiếu dịch, được khảo sát ở phần trên, đã phần nào minh chứng cho điều đó.

Thứ hai, theo lịch sử Phật giáo Trung Hoa, có rất nhiều vị vua là Phật tử đúng nghĩa. Do vậy, sự ủng hộ Phật pháp thể hiện qua việc dịch kinh là một sự thật được công nhận. Trong trường hợp này, mặc dù ra chiếu chỉ dịch kinh, nhưng ẩn sau văn bản đó là tinh thần cung kính tuyệt đối với Tam bảo và khiêm hạ với chư Tăng nói riêng. Sự hỗ trợ của các vị vua Phật tử này là một đóng góp không nhỏ cho Phật giáo Trung Hoa nói riêng và Phật giáo nói chung. Những di sản văn hóa Phật giáocụ thểcông trình Đại tạng kinh Hán tạng, đều lưu dấu ấn do bởi những đóng góp to lớn và vĩ đại của những quân vương này. Từ thái độ ứng xử khiêm cung của các bậc quân vương Phật tử, từ những đóng góp vĩ đại cho sự nghiệp phát triển Phật giáo; đã cho thấy, việc ban chiếu dịch kinh chỉ là thói quen trong văn bản hành chánh tại Trung Hoa cổ đại. Xét về căn bản giới luật, thì có thể còn vài điều nghi ngại trong chuẩn mực của giới Thanh văn, nhưng hoàn toàn đúng pháp trong giới luật của Bồ-tát(29).

Vài suy niệm tạm kết

Nếu coi sự phát triển của Phật giáo như một dòng sông, thì đôi khi dòng sông ấy phải tung bọt trắng xóa qua những khúc khuỷu, thác ghềnh, hay âm thầm xuôi chảy dưới những tán rừng để chuyển tải chất liệu sống cho vạn đại sinh linh. Lần theo dấu vết của một dòng sông, nhất là dòng sông cổ, là việc làm không hề đơn giản và không thể hoàn thành trong một sớm một chiều.

Qua khảo sát về những dịch phẩm có thuộc tính phụng chiếu từ ĐCTTĐTK, điều có thể nhận ra, phần lớn những công trình kinh điểngiá trị của Phật giáo Bắc truyền không bị ảnh hưởng bởi thuộc tính này ở nghĩa đen cụ thể, vì các công trình đó luôn được sự ủng hộ của các bậc Phật tử minh quân và do sự nỗ lực toàn tâm của các đại pháp sư, dịch giả. Ba chữ phụng chiếu dịch trong những dịch phẩm nghiêm túc chỉ là một dấu vết của văn bản hành chánh thời xưa, chứ không mang nghĩa chỉ đạo, áp đặt. Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ.

Trong một số trường hợp, cái bóng tự ngã của hoàng gia đôi khi vẫn xen vào những dịch phẩm của Phật giáo, điều đáng mừng là những dịch phẩm thuộc dạng này chiếm một tỷ lệ cực nhỏ và dễ dàng bị phát hiện ra với những bậc thức giả hữu tâm. Thiết tưởng, lời dạy của Đức Phật đối với dân chúng Kalama trong kinh Các vị ở Kesaputta(30) cần được vận dụng đối với kinh văn dù ở bất cứ hệ thống nào, mỗi khi phiên dịch hay vận dụng vào thực tiễn.

 Chú thích

 (1) 大 正 新 脩 大 藏 經, 第 四 十 九 冊, 史 傳 部, No. 2119 寺 沙 門 玄 奘 上 表 記. Nguyên văn: 以 顯 慶 五 年 正 月 一 日 起 首. 譯 大 般 若 經. 至 今 龍 朔 三 年 十 月廿 三 日 絕 筆.

(2) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 九 冊 No. 262, 妙 法 蓮 華 經.

(3) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 二 十 冊 No. 1148, 佛 說 虛 空 藏 菩 薩 陀 羅 尼.

(4)大 正 新 脩 大 藏 經 第 二 十 一 冊 No. 1307, 佛 說 北 斗 七 星 延 命 經.

(5)大 正 新 脩 大 藏 經 第 二 十 一 冊 No. 1308, 七 曜 攘 災 決.

(6) Xem, Hòa thượng Thích Minh Châu, Huyền Trang, nhà chiêm báihọc giả, Thích nữ Trí Hải, dịch, TP. HCM, 1989.

(7) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 冊 No. 2061, 宋 高 僧 傳, 宋 高 僧 傳 卷 第 三, 唐 京 師 滿 月 傳 (智 慧 輪).

(8)  Vương Văn Nhan, Lịch sử phiên dịch Hán tạng, HT. Thích Phước Sơn, biên dịch, NXB. Phương Đông 2008, tr.63.

(9)  Sđd.

(10) Theo, Từ Hải, bản hợp đính, Trung Hoa thư cục tái bản, 1948, tr.1241.

(11)  Xem, Trần Trọng Kim, Nho Giáo, NXB. TP.HCM, 1992, tr.85.

(12) PTS. Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học Trung Quốc, NXB. Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1997, tr.361.

(13)  大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 二 冊, 史 傳 部, No. 2119 寺 沙 門 玄 奘 上 表 記.

(14) Sđd.

(15)  Sđd.

(16) Xem thêm, Vũ Thế Ngọc, Kumarajiva - Cưu Ma La Thập, đặc san Suối nguồn, số 3&4, tu viện Huệ Quang ấn hành.

(17)  Vương Văn Nhan, Lịch sử phiên dịch Hán tạng, HT.Thích Phước Sơn, biên dịch, NXB. Phương Đông 2008, tr.45-46.

(18) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 二 冊, 史 傳 部, No. 2119 寺 沙 門 玄 奘 上 表 記.

(19)  Sđd.

(20) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 十 七 冊 No. 840, 稱 讚 大 乘 功 德 經.

(21) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 二 十 一 冊 No. 1325, 佛 說 療 痔 病 經.

(22) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 二 十 一 冊 No. 1307, 佛 說 北 斗 七 星 延 命 經.

(23) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 二 十 一 冊 No. 1330, 囉 [口*縛] 拏 說 救 療 小 兒 疾 病 經.

(24) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 二 十 一 冊 No. 1303, 佛 說 聖 曜 母 陀 羅 尼 經.

(25) HT. Thích Trí Thủ, Yết ma yếu chỉ, NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, 2006, tr.37.

(26)  Kinh Tăng chi, chương Tám pháp, phẩm lớn, kinh Ngày trai giới.

(27) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 二 冊 No. 2102, 弘 明 集, 弘 明 集 卷 第 五.

(28)  Sđd.

(29)  Xem, Bồ-tát giới, Trí Quang, dịch, NXb. TP. HCM, 1998.

(30)  Kinh Tăng chi, chương Ba pháp, phẩm Lớn, kinh Các vị ở Kesaputta. Xem thêm, Kinh Trung A Hàm, phẩm Nghiệp Tương ưng, kinh Già lam, số 16. Bản dịch của Tuệ Sỹ.

Hoằng Quảng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11060)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14357)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
(Xem: 11530)
Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng...
(Xem: 12706)
Phật giáo không chen chủ quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật, và chân lý của đạo Phật là lời kết luận sau sự suy nghiệm chung thực ấy.
(Xem: 12316)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học.
(Xem: 11090)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
(Xem: 10961)
Trong Phật giáo, Tiểu ngã hay Đại ngã, chỉ là những khái niệm giả danh. Nhưng cái giả danh được đông kết bởi tích lũy vô số vọng tưởng điên đảo.
(Xem: 13437)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
(Xem: 11872)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
(Xem: 13753)
Mỗi con người chúng ta đều có ba thân, đó là thân Tiền ấm, thân Trung ấm và thân Hậu ấm. Thân Tiền ấm là thân hiện đời chúng ta đang có, là thân vật chất...
(Xem: 11973)
“Ta là cái gì?” “Ta ở đâu?” “Ta từ đâu đến?” “Ta đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn đề duy nhất, mà cách hỏi khác nhau. Hiểu được một, sẽ giải quyết tất cả còn lại.
(Xem: 11240)
Kinh Đại bản [Tương đương Pāli: Mahānpadānasutta, D 14] Cũng được gọi là Đại bản duyên. Hán dịch Đại bản, tương đương Pāli là mahāpadāna.
(Xem: 12290)
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử.
(Xem: 12463)
Ở đây, có sự sai biệt nhau trên bình diện mê, nên có Tục đế - Đệ nhất nghĩa đế - Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó không khác nhau.
(Xem: 20666)
Tập tục Sóc, Vọng theo chân những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào những con người tứ xứ và đất đai...
(Xem: 12481)
Suy cho cùng, Phật giáo là một lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu của con người
(Xem: 12510)
Kim cang là kinh phổ biến nhất của Đại thừa. Xu hướng giảng kinh Kim cang tại Việt Nam trước nay phần lớn dựa trên truyền thống Hán qua bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập.
(Xem: 11760)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 11636)
Không thể định nghĩa về Không, mà chỉ có thể gợi ý rằng Không không thể là đối tượng của tư duy ngã tính (nhị duyên), mà là thực tại như thực của sự thể nhập...
(Xem: 22470)
Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG -SKYA ON YOGACARA...
(Xem: 13619)
Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thôngBát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp...
(Xem: 29765)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
(Xem: 11581)
Từ trong lòng Tánh Không luận đi ra, người ta thử thay đổi các bình diện biểu lộ của nó, rồi qua những gì sẽ đạt được, trong lãnh vực suy lý cũng như trong lãnh vực sinh hoạt thực tế...
(Xem: 16802)
Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau này được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN...
(Xem: 12042)
Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 16896)
Tượng Phật là để thờ, tất nhiên: như sự bày tỏ niềm tri ân, tôn kính của người Phật tử. Nhưng không chỉ thế, tượng Phật còn để chiêm ngưỡng: như một lối trang trí...
(Xem: 12134)
Mọi sự mọi vật theo luật vô thường, chuyển biến liên tục không bao giờ ngừng nghỉ, nhất là chúng thay đổi mau chóng. Con người do không rõ được lẽ vô thường sinh diệt đó...
(Xem: 17991)
Pháp môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng được các truyền thống khác tu tập.
(Xem: 12697)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật Pháp như chuông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ...
(Xem: 13215)
... nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có.
(Xem: 14807)
Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngần ấy cơ bệnh do ba độc phiền não sinh ra.
(Xem: 22711)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 10626)
Đối với một truyền thống nặng thần bí như dân tộc Ấn độ, ngôn ngữ quả là một ma lực, một năng lực kỳ diệu có thể vén mở tất cả sự ẩn tàng của thế giới.
(Xem: 14097)
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta hung dữ và hận thù.
(Xem: 13904)
Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sanh ra...
(Xem: 13752)
Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh. Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
(Xem: 13916)
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn ấy, không có điểm khởi đầu...
(Xem: 13972)
Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính”, không có yếu tính quyết định.
(Xem: 14874)
Các nhà nghiên cứu Phật học, các Sử gia đều coi Kinh tạng Nguyên thủytài liệu đáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phật tuyên thuyết.
(Xem: 13904)
Theo đúng giáo lý bất hại của đức Phật, vua Asoka nêu bật tầm quan trọng, tính cách thiêng liêng của cuộc sống không chỉ giữa loài người mà cả với loài vật.
(Xem: 18462)
Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thânPháp thân, Báo thânỨng thân. Cách bài trí các tượng Phậtchánh điện theo đúng ý nghĩa ấy...
(Xem: 22865)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 15445)
Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
(Xem: 17361)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 22441)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
(Xem: 14300)
Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ cho mình, phụng sự người khác là phụng sự cho mình, đem lại niềm vui cho người khác là khai mở niềm vui nơi chính mình.
(Xem: 12656)
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11225)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 17828)
Chánh tín trong Phật Giáoniềm tin được soi sáng bởi trí tuệ, được trắc nghiệm qua sự thực hành, là niềm tin vào nhân quả, nghiệp báo, là niềm tin vào Tam Bảo...
(Xem: 13246)
Chúng ta tin vào Phật phải tin vào pháp và phải tin vào Tăng, tin vào Kinh, tin vào nhân quả. Tất cả những việc nầy đều tạo chúng ta có một sức mạnh tự thân...
(Xem: 13158)
Bài viết dưới đây tóm lược lại hai câu chuyện được ghi chép trong kinh sách, tả lại những cảnh ganh tị, hận thù, tham vọng,... đã xảy ra khi Đức Phật còn tại thế.
(Xem: 18850)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 17216)
Làm chủ tâm, mà Chư Vị Bồ Tát đã thị hiện vào cuộc đời này, dù bất cứ môi trường nào, hoàn cảnh nào Bồ Tát vẫn an nhiên tự tại trong đời sống hành đạo của Bồ Tát.
(Xem: 13562)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha khi đem chúng ra ban vui cứu khổ...
(Xem: 12973)
Bát bất gồm có 8 loại không. Đó là: Bất sinh bất diệt, bất đoạn bất thường, bất nhất bất dị và bất khứ bất lai. Đây là 8 loại lập luận để thấy con đường trung đạo.
(Xem: 14750)
Không biến cố nào có thể xảy ra nếu trước đó không xảy ra nguyên nhân của nó. Khi hiểu nguyên nhân, con người có thể ngăn chận biến cố...
(Xem: 14735)
Cờ Phật Giáo, trước hết là biểu trưng tinh thần thống nhất của Phật Tử trên toàn thế giới. Cờ Phật Giáo còn tượng trưng cho niềm Chánh tín và sự yêu chuộng hòa bình...
(Xem: 15926)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
(Xem: 13560)
Lời Phật cần ghi nhớ: "Chúng sanh là kẻ thừa tự những hành vi mà nó đã làm". Và còn có lời Phật khác nữa: "Hãy là kẻ thừa tự Chánh pháp của Như lai...
(Xem: 27513)
Tôn giả A Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant