Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Niết Bàn

14 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 8418)
Niết Bàn


NIẾT BÀN


Tác giả: Alexander Berzin, 1978
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển, Wednesday, December 11, 2013


kinh-niet-ban-giang-giaiÝ Nghĩa Của Chữ "Niết Bàn"

Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa. Trong cách thường dùng nhất, lửa tượng trưng cho những khổ đau tái diễn không thể kiểm soát của luân hồi; trong khi nhiên liệu tượng trưng cho những cảm xúc phiền não, và nghiệp tượng trưng cho nhiên liệu. Thuật ngữ Tây Tạng cho "niết bàn" có một ý nghĩa khác. Nó có nghĩa bóng là một "thể trạng vượt khỏi khổ đau", liên hệ đến một tình trạng thoát khỏi khổ đau.

Những Loại Niết Bàn

Theo sự giải thích của tông Hoàng Mạo - Trung Quán Cụ Duyên Phái thì có hai loại niết bàn:

*Niết bàn tự nhiên - Tự tánh thanh tịnh niết bàn.

*Niết bàn thành tựu.

Niết bàn tự nhiên là một dạng khác của tánh không, cung cách thật sự mà trong ấy mọi sự tồn tại.

Có ba loại niết bàn thành tựu được đạt đến:

*Niết bàn hữu dư y.

*Niết bàn vô dư y.

*Niết bàn vô trụ xứ.

Những hệ thống Tiểu Thừa, và trong Đại Thừa, Duy ThứcTrung Quán Tự Quản Tông không thừa nhận niết bàn tự nhiên. Nó chỉ xuất hiện trong Trung Quán Cụ Duyên tông, như được giải thích bởi tông Hoàng Mạo. Hơn thế nữa, Tiểu Thừa và nhiều truyền thống Đại Thừa giải thích ba loại niết bàn thành tựu một cách khác biệt. Chúng ta hãy thẩm tra vài truyền thống này.

Sự Trình Bày của Tiểu Thừa

Theo những hệ thống Tiểu Thừa, như được trình bày trong Đại Thừa, một chúng sanh đắc niết bàn với thân thể còn lại - hữu dư, trong kiếp sống của vị ấy, vị ấy trở thành một vị A La Hớn của Thanh Văn hay Độc Giác Phật, hay một vị Toàn Giác Phật. Được gọi là hữu dư bởi vì vẫn còn sót lại những uẩn nhiễm ô của vị ấy. Có một sự hữu dư nhiễm ô còn lại bởi vì không như những hệ thống Đại Thừa, hệ thống Tiểu Thừa không thừa nhận bất cứ điều gì vô nhiễm ngoại trừ những tâm đạo thật sự (đạo đế của Bốn Chân Lý Cao Quý). Vì vậy, những hệ thống này không chấp nhận ngay cả một Đức Phật có thể có những uẩn vô nhiễm.

Với sự chết, một vị A La Hớn hay Đức Phật đạt đến niết bàn không còn thừa - vô dư y niết bàn, khi dòng suối của sự tương tục của những uẩn nhiễm ô của vị ấy bị cắt đứt, như sự dập tắt của một ngòn đèn bơ. Rồi thì chỉ có một sự chấm dứt thật sự tĩnh tại (diệt đế). Hai loại niết bàn này, hữu dư y và vô dư y, cùng với nhau, được gọi là giải thoát (S: moksha, P: mokkha).

Niết bàn vô trụ xứ là thể trạng bất biến tĩnh tại của Giác Ngộ tròn vẹn được đạt đến bởi một Đức Phật trong khi ngài đang tại thế. Bởi vì trong thể trạng này, một Đức Phật không duy trì trong cực đoan của khổ đau tiếp tục luân hồi cũng không ở trong cực đoan thụ động niết bàn vô dư y của một vị A La Hớn Tiểu Thừa, cho nên được gọi là "vô trụ xứ".

Sự Trình Bày Phổ Thông của Đại Thừa

Mặc dù không có sự thống nhất hoàn toàn, theo quan điểm của Đại Thừa, chỉ những vị Thanh VănĐộc Giác Phật đạt đến niết bàn hữu dư khi các vị đạt đến quả A La Hớn trong kiếp sống của các vị ấy. Các vị ấy vẫn còn một sự sót lại của các uẩn nhiễm ô. Với sự viên tịch của các vị ấy từ kiếp sống mà các vị đã đạt đến quả A La Hớn, các vị Thanh VănĐộc Giác Phật đạt đến niết bàn vô dư y. Các vị ấy không còn những uẩn nhiễm ô; tuy nhiên, sự tương tục tinh thần của các vị ấy không dập tắt (chưa thật diệt) như sự thừa nhận của những hệ thống Tiểu Thừa. Sự tương tục của các vị ấy tiếp diễn với những uẩn vô nhiễm - nói cách khác, với thân thể thanh tịnh, an trú hầu hết trong Phật độ. Cuối cùng, họ sẽ tiếp tục đi trên con đường Bồ tát. Hai loại niết bàn được đề cập với A La Hớn Tiểu Thừa vẫn được gọi là "giải thoát".

Những thuật ngữ niết bàn hữu dư y và niết bàn vô dư y không áp dụng cho những Đức Phật. Ngay lập tức với sự Giác Ngộ của các ngài, chư Phật có các uẩn vô nhiễm. Một Đức Phật chỉ đạt vô trụ xứ niết bàn, vẫn được định nghĩa như không duy trì trong cực đoan khổ đau tiếp tục luân hồi cũng không ở trong cực đoan niết bàn vô dư y của A La Hớn Tiểu Thừa.

[See: Fine Points Concerning the Physical Bodies of Buddhas and Arhats .] 

Sự Trình Bày của Trung Quán Cụ Duyên Tông Theo Truyền Thống Hoàng Mạo

Theo truyền thống Hoàng Mạo Tây Tạng, hệ thống Cụ Duyên Tông có một cung cách đặc thù của việc định nghĩa những loại niết bàn khác được thành tựu. Những gì một vị Thanh Văn hay Độc Giác Phật đạt đến vẫn gọi là "giải thoát" và những gì Đức Phật đạt đến là "vô trụ xứ niết bàn". Tuy nhiên, cả hai thứ này được phân thành niết bàn hữu dư y và niết bàn vô dư y.

Với sự quan tâm đến một A La Hớn Thanh Văn hay Độc giác Phật, niết bàn vô dư y liên hệ đến những thể trạng của họ trong lúc hoàn toàn thể nhập với tánh không (thắng định, đẳng dẫn, tam ma hý da, samahita), khi không có hiện tướng có thể tìm thấy một sự tồn tại chân thật. Niết bàn hữu dư y liên hệ đến thể trạng của họ trong những thời điểm sau đấy, khi hành thiền trên những đề mục khác hơn là tánh không, hay khi hoàn toàn không hành thiền gì cả. Bởi vì những vị A La Hớn như vậy chưa vượt thắng những chướng ngại nhận thức, [sở tri chướng], ngăn trở việc toàn giác, được gọi là những thói quen kiên cố chấp thủ vào sự tồn tại cố hữu [pháp chấp], hiện tướng làm ra một kiểu thức không thể tồn tại [có tự tánh] trở lại trong những thời điểm như vậy. Vì vậy, Trung Quán Cụ Duyên Tông đặc biệt thừa nhận, trong ý nghĩa này, là niết bàn vô dư y được đạt đến trước niết bàn hữu dư y.

Tuy nhiên, khi liên hệ đến một Đức Phật, một sự phân biệt như vậy giữa niết bàn hữu dư hay vô dư y thì không nói đến trong dạng thức hoặc là có hay không có hiện tướng làm nên một sự tồn tại chân thật có thể tìm thấy. Một Đức Phật đã chiến thắng ngay cả những thói quen bất giác vốn đã đưa đến một hiện tướng [có tự tánh] như vậy và luôn luôn hoàn toàn thể nhập trong tánh không ngay cả trong khi hành động. Thế nên, trong liên hệ đến những Đức Phật, niết bàn hữu dư hay vô dư y là những khía cạnh khác của thể trạng vô trụ xứ niết bàn. Niết bàn hữu dư y liên hệ đến những Thân Hình Sắc Giác Ngộ (Sắc thân * Rupakaya) và vô dư y niết bàn liên hệ đến Thân Tỉnh Thức Thậm Thâm Bao Hàm Tất Cả (Tuệ Giác Thân * Jnana-Dharmakaya) của một Đức Phật.

Nirvana

http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level4_deepening_understanding_path/path/nirvana.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8391)
Tập tục dâng hương là một đạo lý truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, đây là những gia bảo tinh thần đáng quý của tổ tiên để lại cho con cháu kế thừa.
(Xem: 8227)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8308)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
(Xem: 9167)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 8058)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16272)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15796)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 8003)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 8009)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8723)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7902)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7495)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9312)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8571)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8633)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11910)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7526)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8295)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11743)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7405)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 9002)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 8420)
Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật.
(Xem: 10034)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9677)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9610)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10565)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10151)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8237)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20285)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8094)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8579)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9425)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9338)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7746)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8365)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8209)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 9043)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8785)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8638)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10195)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8137)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8853)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 9018)
Năm pháp, cùng tự tính, Tám thức, hai vô ngã. Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa.
(Xem: 8461)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7613)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 7529)
Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn...
(Xem: 9528)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9893)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8563)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12310)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9629)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7568)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8868)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16919)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 9031)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13265)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19817)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8670)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9248)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8315)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant