Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Đế Vương Với Phật Giáo

20 Tháng Hai 201400:00(Xem: 12337)
Các Đế Vương Với Phật Giáo


NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ THÔNG TIN - 2002

CÁC ĐẾ VƯƠNG VỚI PHẬT GIÁO

VƯƠNG CHÍ BÌNH

Đào Nam Thắng dịch
Đức Niệm hiệu dịch


81cacdevuong


LỜI NÓI ĐẦU


Phật giáo ra đời vào quãng thế kỷ VI đến thế kỷ thứ V trước công nguyên ở vùng Ấn Độ cổ đại. Người sáng lậpThái Tử Kiều Đạt Ma -Tất Đạt Đa, con trai Tịnh Phạm Vương của nước Ca-tỳ-la-vệ vùng Ấn Độ cổ đại ( Ngày nay thuộc nước nêpan). Sau khi thái tử Tất Đạt Đa sáng lập nên đạo Phật, Thái tử liền được mọi người gọi là Thích Ca Mâu Ni ( tức là vị thánh của dòng họ Thích Ca). Sau khi Phật giáo ra đời, trong một thời gian dài đạo Phật chỉ lưu truyền ở vùng Ấn Độ cổ đại, hơn thế nữa ảnh hưởng của nó không lớn lắm, lại trải qua nhiều thăng trầm. Ngay trong nội bộ Phật giáo cũng dần dần phân hoá, hình thành rất nhiều hệ phái. Vào thế kỷ thứ III trước công nguyên. A Dục Vương, thế hệ thứ 3 của Quốc Vương thời Khổng Tước Vương đã thống nhất toàn bộ Ấn Độ. Tương Truyền khi mới lên ngôi, A Dục Vương vô cùng tàn bạo, sau đó ngài liền tôn thờ Phật giáo,” vứt bỏ gươm đao, lên ngôi thành Phật”. A Dục Vương đã từng cho xây dựng hàng vạn ngôi chùa có Xá lợi Phật ở vùng Ấn Độ cổ đại; đồng thời cũng cúng dàng cho tăng đoàn Phật giáo một khối lượng lớn của cải và đất đai hơn thế nữa ngài còn cử các cao tăng đi khắp nơi trong toàn quốc và ra cả nước ngoài để truyền bá Phật Giáo. Điều này đã giúp cho sự phát triển và truyền bá Phật giáo được nâng lên một bậc cao hơn. Đến thế kỷ thứ II trước Công nguyên, Vua Ca Nhị Sắc Ca, Vương triều Quý Sương của vùng bắc Ấn Độ cổ đại, một lần nữa lại tôn vinh Phật Giáo. Ngài cho xây dựng nhiều ngôi chùa thờ Phật, cúng dàng chư tăng, quí trọng các cao tăng, cử các tăng sĩ đi khắp nơi để truyền bá Phật Pháp; điều đó đã giúp cho Phật giáo đã được truyền xuống vùng nam và vùng Tây Bắc Ấn Độ. Việc hộ pháptruyền bá chánh pháp của lần này của Ca Nhị Sắc Ca Vương đã đặt nền móng cho việc Phật Giáo vẫn tiếp tục được truyền bá. Phật giáo được du nhập vào Trung Quốc vào thời kỳ lưỡng hán( vào đầu kỷ nguyên). Con đường truyền nhập là từ Tây bắc Ấn Độ truyền đến cùng Trung Á, sau đó lại du nhập vào vùng Tây Thành (ở vùng Tân Cương ngày nay và các nước ở vùng phía Tây núi Thông Sơn), sau đó dần dần được du nhập vào vùng Trung Nguyên. Vào thời kỳ Tam Quốc Đông Hán, khi Phật giáo vừa mới truyền vào Trung Quốc, từ các bậc phong kiến thống trị đất nước đến các thần dân trăm họ về cơ bản đều coi Phật giáo là một thứ thần tiênphép mầu nhiệm, do đó ảnh hưởng của Phật giáo và qui mô phát triển của Phật giáo đều rất hạn chế. Bản thân Phật giáo trong thời kỳ này chỉ chú trọng các hoạt động như biên dịch kinh sách và giải thíchmục đích cùng với giáo nghĩa của Phật giáo. Đến thời kỳ Nguỵ Tấn nam Bắc Triều, Phật giáo lại một lần nữa phát triển và hưng thịnh, do đó đã nảy sinh những mâu thuẫnxung khắc gay gắt với nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Về mặt lý luận, sự xung khắc này chủ yếu tập trung vào sự bất đồng của nhận thức và tranh cãi về vấn đề như báo ứng nhân quả, luân hồi sinh tử, và” trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Sự xung khắc gay gắt giữa Phật giáo và văn hoá truyền thống của Trung Quốc ở mức độ nhất định nào đó đã kích thích sự thay đổi, sự chuyển hoá của bản thân Phật giáo từ Phật Giáo Ấn Độ sang một nền Phật Giáo phù hợp với những nhu cầu về tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống của xã hội Trung Quốc. Chính trong thời kỳ này, về cơ bản Phật giáo đã hoàn thành qúa trình Trung Quốc hoá, và cũng cơ bản đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ của Phật GiáoTrung Quốc. Thời kỳ Tuỳ Đường, theo sự phát triển của xã hội chính trị, Phật giáo cũng bước vào thời kỳ phát triển mang tính cao trào. Theo đà dần dần hoàn thiện của Phật giáo, các Tông giáo của Phật giáo thời kỳ Đường cũng nhờ đó mà đưa nhau ra đời. Các tông giáo chủ yếu gồm có: Thiên Thai Tông, Tam Luận Tông, Từ Ấn Tông, Hoa Nghiêm Tông, Luật Tông, Tịnh Độ Tông, Thiền Tông, Mật Tông. Trong đó, Thiền Tông vào sau thời kỳ Trung Đường đã phân thành năm phái như Vi Ngưỡng, Lâm Tế, tào Động, Vân Ngôn, Pháp Nhãn. Thiền Tông cùng với năm phái ra đời sau đó đã từng ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đối với lịch sử và phát triển của Trung Quốc. Cùng với sự giao lưu giữa Vương triều Đường và dân tộc Thổ Phiên ( một dân tộc thiểu số sống ở tỉnh Thanh Hải và vùng Tây Tạng) Phật giáo từ thời Trung Đường chuyển vào vùng Tây Tạng, sau đó dần dần hình thành giáo phái Lạt Ma( Phật giáo tạng truyền hoặc Phật giáo Tạng ngữ hệ). Cùng với sự phát triển rộng rãi ra ngoài lãnh thổ ở thời kỳ Tuỳ Đường, các tông phái Phật giáo thời kỳ Tuỳ Đường lập tức cũng được truyền bá rộng rãi ra bên ngoài lãnh thổ. Phật giáo thời kỳ Tuỳ Đường về cơ bản đã trở thành một bộ phận vô cùng quan trọng cấu thành nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Thời kỳ Lưỡng Tống, Phật giáo được tiếp tục duy trì, nhưng Phật giáo cũng dần dần kém phát triển sau thời kỳ Phát triển cao trào, hưng thịnh. Đặc biệtthời kỳ Nam Tống, Phật giáo vẫn giữ được sự hưng thịnh nhất định, nhưng nền trính trị thời kỳ Nam Tống có biến động, do đó ngoài Thiền TôngTịnh độ ra, các tông phái khác cũng dần dần suy yếu so với thời trước. Song sự lưu hành của Phật giáo thời kỳ này cho ta thấy rõ những đặc trưng chứng tỏ của Phật giáo đã ăn sâu vào văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Học thuyết Tống Nho đã hấp thụ được một phần tư tưởng của Phật giáo, từ đó làm phong phú thêm nội dung lý luận của học thuyết đó; Tín ngưỡng Phật giáo dân gian càng ngày càng đi sâu vào lòng người, một số quan niệm của tôn giáo đã biến thành phong tục tập quán của nhân dân. thời kỳ Nguyên, Minh, Thanh sự phát triển của Phật giáo tiếp tục suy thoái. Triều Nguyên thì vô cùng tôn sùng giáo phái Lạt Ma, Phật giáo ở đất Hán chỉ có một vài Tông phái đặc biệt được tiếp tục lưu hành và phát triển, nhưng ảnh hưởng của nó thì rất nhỏ, phạm vi hẹp. Vào thời Minh, phật giáo tiếp tục suy thoái nhưng do sự hoà hợp và liến kết giữa các giáo phái ngay trong chính bản thân Phật giáo và do sự giao lưu bên ngoài với Nho giáo, Đạo Giáo, Phật giáo đã nhận được sự hoan nghênh của đông đảo các sĩ phu và sự tôn sùng đông đảo của nhân dân; điều đó đã kích thích sự phát triển của Phật giáo. Sự phát triển của Phật giáo thời Thanh về cơ bản là sự tiếp nối sự phát triển Phật giáo thời Minh, nhưng vẫn có chiều hướng kém đi.

Trong lịch sử phát triển lâu dài của Phật giáo sau khi du nhập vào Trung Quốc, có một sự thật chính như sau: tức là Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương. Nói chung, các vị Đế Vương ở các triều đại phong kiến của Trung Quốc đều là những vị mong muốn hộ pháp. Các vị Đế Vương muốn bảo vệ và phát triển Phật giáo là vì Phật giáo khuyên chúng sinh hãy giữ tâm thanh tịnh và diệt đi mọi ham muốn, cố gắng giữ tâm thanh tịnh và làm điều thiện. Điều đó rất có lợi cho các vị giữ địa vị thống trị trong các tập đoàn phong kiến, họ lấy đó làm phương sách để trị quốc, giữ gìn hoà thuận trong nhân dân giữ bình an cho đất nước. Xét từ bản thân Phật giáo, sau khi du nhập vào Trung Quốc không được bao lâu thì Phật giáo cũng nhận ra mối quan hệ giữa sự phát triển của chính mình và nền thống trị của giai cấp phong kiến. Ngay từ thời Đông Tấn, một vị cao tăng nổi tiếng tên là Thích Đạo An đã từng công khai nói rằng: Không dựa vào vua thì không thể dựng nên phép tắc nhà nước. Một số các vị Đế Vương của giai cấp phong kiến về cơ bản cũng nhận thấy rằng: Phật giáo cũng có thể giúp ích cho công việc cai quản đất nước của mình. Hán Văn Đế thời bắc Nguỵ đã từng ca ngợi Phật giáo như sau” Luật nhà nước giúp Vua cai quản đất nước, làm tăng thêm tính thiện cho nhân và từ, bài trừ được cái xấu của xã hội, mở rộng sự hiểu biết chân chính”. Từ đó có thể tình hình mối quan hệ tương hỗ giữa Phật giáogiai cấp thống trị của Trung Quốc, sau khi các tôn giáo được du nhập vào. Do đó về mặt lịch sử mối quan hệ qua lại nương tựa lẫn nhau giữa các bậc Đế Vương của giai cấp phong kiến và các vị cao tăng của Phật giáo đã được ghi lại trong sử sách. Như sau thời kỳ 16 nước có mối quan hệ giữa Triệu Thạch Thị và Phật Đỗ Trừng, mối quan hệ giữa Lưu Tống Văn Đế thời Nam Triều với Thích Tuệ Lâm, mối quan hệ giữa Nguyên Minh Đế thời Bắc Nguỵ với Tăng Pháp Quả mối liên hệ giữa Văn Thành Đế thời Bắc Nguỵ với Thích Đàm Diệm, mối liên hệ giữa Văn Hiếu Đế thời Bắc Nguỵ với Thích Đạo Đăng, mối liên hệ giữa Tuỳ Văn Đế với Thích Đàm Thiên, mối liên hệ giữa Đường Thái Tông và Đường Huyền Trang,...vv. Đó đều là những ví dụ rõ ràng về mối liên hệ chặt chẽ, thân tình giữa các vị cao tăng của Phật giáo với những người đứng đầu giai cấp thống trị phong kiến, nó đã tỏ rõ mối quan hệ nương nhờ giữa Phật giáoquyền lực tối cao của giai cấp phong kiến.

Mối quan hệ giữa Phật giáo và các vị Đế Vương Trung Quốc là một vấn đề vô cùng thú vị, nhưng đó cũng là một vấn đề vô cùng phức tạp. Bởi vì về mặt lịch sử, các mối quan hệ giữa các bậc Đế Vương và Phật giáo vừa là mối quan hệ về mặt trính trị, vừa là mối quan hệ về mặt tín ngưỡng; vừa có các nhân tố mang tính chất nhà nước vừa có các nhân tố mang tính chất tất nhiên, vừa có các nhân tố mang tính chất ngẫu nhiên. Đa số các vị Đế Vương Trung Quốc cổ đại đều có một nguyên tắc chung như sau: đó là quyền lực của giáo phái không được cao hơn quyền lực của Vua, các sinh hoạt trong đời sống tôn giáo không được phép quấy nhiễu hoặc phá hoại đời sống trính trị quốc gia. Đường Thái Tông – Lý Thế Dân - người xưng đạo thế hệ sau những năm Trịnh Quán hưng thịnh – ông ta quan hệ khá thân thiết với nhiều vị đại đức cao tăng Phật giáo, nhưng về mặt trính trị ông lại dùng quyền lực của Vua để giữ gìn hoà thuận giữa ba tôn giáoNho Giáo, Thích Ca Giáo (1)Đạo Giáo, điều đó giúp cho ba tôn giáo này đồng tâm hiệp lực cùng nhau phục vụ công việc cai quản đất nước của giai cấp phong kiến. Cùng thời gian này, ông ta đặc biệt cảnh giác cao với hai tôn giáo Thích Ca Giáo và Đạo giáo, khiến cho sự phát triển của hai tôn giáo này không lấn át, không uy hiếp quyền lực của Vua. Có một vị hoà thượng tên là Pháp Lâm, do trong một tác phẩm của mình có đoạn có ý nói xấu vương triều Lý Đường, suýt nữa bị Lý Thế Dân xử tội chém đầu, cuối cùng bị đưa đi đầy ải. Về sau, Chu Thế Tông Sài Vinh tại thế, là thời kỳ nạn đao binh nổ ra triền miên, việc quản lý các tăng ni có phần lỏng lẻo, do đó các chùa triền được xây dựng tràn lan, gây ảnh hưởng trực tiếp đến thuế khoá và việc sai dịch. Do đó ông ta liền hạ chiếu chỉnh đốnquản lý chặt chẽ các chùa chiền, tăng ni, dùng quyền lực của nhà Vua công khai cấm Phật giáo hoạt động, từ đó gây ảnh hưởng phá hoại Phật giáo một cách nghiêm trọng. trong lịch sử Trung Quốc có rất nhiều vị Đế Vương tôn sùng Phật giáo, thực sự mong muốn qui y cửa Phật, chuyện này nói chung bị quần thần phản đối và con cháu thế hệ sau chê cười. Lương Vũ Đế thời Nam Triều đã thành kính tôn thờ Phật pháp, đã từng bốn lần xả thân vào chùa chiền, không muốn làm Thánh Chúa mà muốn làm Pháp vương, bị các thuộc hạ phản đối gay gắt. Đường Hiến Tông thường xuyên đến tế lễ ở các chùa có xá lợi Phật và tạo thành một không khí sôi nổi chưa từng thấy, hồi đó nhà thơ Hàn Dũ đã có “ Gián Nghênh Phật Cốt Biểu”( Biểu khuyên can về việc nghênh đón cốt Phật) lấy đó làm lời can ngăn. Có một số vị Đế Vương thời kỳ phong kiến lúc đầu vô cùng tôn sùng Phật Pháp, về sau tín ngưỡng của họ đối với tôn giáo có sự thay đổi, họ lại hạ lệnh công khai cấm Phật giáo hoạt động. Như Thái Vũ Đế thời bắc Nguỵ và Đường Vũ Tông lúc đầu vô cùng tôn sùng Phật Giáo, về sau chuyển sang tôn thờ Đạo Giáo. Họ công khai đả kích Phật Giáo, từ đó làm ảnh hưởng to lớn đến nguyên khí của Phật Giáo ( bản chấtdanh dự của Phật Giáo). Trong lịch sử Trung Quốc có một số vị Đế Vương do những lý do cá nhân và những nhu cầu trính trị của Quốc gia, họ dành rất nhiều công sức vào việc hộ pháp. Tuỳ Văn Đế Dương Kiên ra đời ở một Am ni cô, đồng thời được các ni cô nuôi nấng khôn lớn, Võ Tắc Thiên đã từng đội tóc tu hành ở chùa Cảm Nghiệp, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương xuất hiện là một hoà thượng...Từ sớm họ đã có liên hệ với Phật giáo; điều này đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ của họ đối với Phật giáo sau khi họ đăng quang.

Phật giáo là một tôn giáo không bắt nguồn từ trung Quốc, sau khi du nhập vào Trung Quốc trải qua quá trình giao lưu và đấu tranh với nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc, dần dần Phật giáo hoà nhập vào nền văn hóa của Trung Quốc. Vì vậy, bị nền văn hoá Trung Quốc đồng hoá. Do đó Phật giáo đã gây ảnh hưởng đến tất cả các phương diện đời sống sinh hoạt của xã hội Trung Quốc Thời cổ đại. Sự hiểu biết của mọi người về Phật Giáo ngày nay tất nhiên là không thể tách rời với sự hiểu biết về quá trình Phát triển của lịch sử Phật giáo, và cũng tất nhiên là không thể tách rời với sự hiểu biết về quá trình giao lưu đấu tranh, hoà hợp giữa Phật giáo và nền văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Sự liên hệ giữa các Đế Vương trong nền Phong kiến Trung Quốc cổ đại với Phật giáo, ở một mức độ nào đó chắc chắn sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển của Phật giáotrung Quốc. Do đó vấn đề quan hệ của Phật giáo với các Đế Vương qua các thời đại của Trung Quốc cổ đại là một vấn đề đáng được nghiên cứuthảo luận một cách nghiêm túc.

Quyển sách này muốn lấy sự phát triển của lịch sử, đặc biệt là sự phát triển mang tính chất lịch sử của Phật giáo trong xã hội cổ đại Trung Quốc làm hệ thống cơ bản, lấy mối quan hệ giữa các Đế Vương trong thời đại với Phật giáo làm căn cứ tài liệu, bằng cách phân tích và thuyết minh rõ đối với mỗi quan hệ giữa các Đế Vương và Phật giáo, đại để nêu ra sự gắn bó chặt chẽ giữa các quá trình phát triển của Phật giáo với quá trình phát triển của xã hội cổ đại Trung Quốc. Do chúng tôi không thể nêu rõ tất cả các mối quan hệ của các Đế Vương với Phật giáo ngay từ khi Phật giáo mới du nhập vào Trung Quốc, nên chúng tôi chỉ tiến hành phân tích và thuyết minh rõ mối quan hệ của một số vị Đế Vương với Phật giáo, nhưng mối quan hệ của các Đế Vương này với Phật giáoảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của Phật giáo trong quá trình phát triển của xã hội cổ đại Trung Quốc; hoặc là mối quan hệ này cũng đã từng có những ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của phật giáo trong quá trình phát triển của Trung Quốc cổ đại. Ngoài ra, chúng tôi còn chú ý đến mối quan hệ của sự phát triển lịch sử Trung Quốc cổ đại và lịch sử Phát Triển Phật giáoTrung Quốc. Chúng tôi đều chiếu cố đến các triều đại lịch sử kể từ khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc sau thời kỳ Lưỡng Hán, ở mỗi triều đại chúng tôi đều chọn ra một vị đế vương, phân tích đồng thời nói rõ mối quan hệ giữa họ với Phật giáo để cung cấp cho người đọc một quá trình lịch sử tương đối rõ ràng của Phật giáo Trung Quốc. Cách biên soạn quyển sách này đều chú ý đến việc nói rõ những sự kiện xảy ra có tính câu chuyện, các kiến thức mang nội dung tôn giáo, các vấn đề mang tính học thuật dùng để nghiên cứu chuyên đề, chúng tôi đã cố dung hoà các sự việc mang tính câu chuyện, các vấn đề mang tính kiến thức, các vấn đề mang tính học thuật là một hệ thống nhất để mang đến cho mọi người một cảm giác dễ hiểu.

Quá trình biên soạn quyển sách này đã tham khảo rất nhiều tác phẩm luận văn có liên quan đến lịch sử phát triển của Phật giáo Trung Quốc. Do yêu cầu về đề tài và lượng chữ qui định trong mỗi chuyện nên chúng tôi không thể kể ra tất cả đầu đuôi, chúng tôi đã cố gắng liệt kê mục lụctác phẩm chúng tôi dùng biên soạn quyển sách này ở đằng sau quyển sách, với ý tỏ lòng cảm ơn các tác giả của các tác phẩm và luận văn này.

Tháng 10 năm 1996

Vương Chí Bình

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9318)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
(Xem: 7964)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 8947)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(Xem: 7563)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(Xem: 8223)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(Xem: 9222)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(Xem: 9316)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(Xem: 9002)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
(Xem: 7734)
Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật”
(Xem: 11324)
Trong những bộ Kinh chúng ta học thường thấy hai từ Giác NgộGiải Thoát. Tất cả người tu học đều lấy hai từ đó làm cứu cánh để đi tới.
(Xem: 8807)
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh đại thừa Phật giáo.
(Xem: 8247)
Thập hiệu Như Lai, là những danh hiệu cao quý để tôn xưng những bậc đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
(Xem: 8126)
Cầu nguyện là một phương pháp tâm linh giúp cho con người chúng ta có thể tháo gỡ một phần nào những nỗi khổ niềm đau,
(Xem: 8114)
Tam Bảo như lãnh vực hoạt động của mặt trời. Lòng bi mẫn của các ngài thì vô tư và không bao giờ cạn kiệt.
(Xem: 6353)
Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế...
(Xem: 7742)
Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.
(Xem: 7553)
Tất cả các tính đức là kết quả đến từ tinh tấn, nguyên nhân của hai tích tập phúc đứctrí tuệ. Trí địa thứ tư ngọn lửa trí huệ của...
(Xem: 7525)
Ngọn lửa trí tuệ phát ra ánh sáng khi đốt cháy các hiện tướng nhị nguyên đối đãi của các hiện tượng, do thế trí địa thứ ba được gọi là Phát quang địa.
(Xem: 8536)
Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp.
(Xem: 8048)
Như Lai thọ lượng là phẩm thứ 16 của kinh Pháp Hoa.
(Xem: 8436)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về chư tăng.
(Xem: 11267)
Đối với nhiều người, Phật Giáo vượt ra ngoài tôn giáo và là một triết lý hay "lối sống" hơn. Đó là một triết lý, vì triết lý “có nghĩa là tình yêu của trí tuệ”
(Xem: 8421)
Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội, thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác, cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.
(Xem: 7555)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Trúc Lâm (Veluvana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về một nữ cư sĩ, tên là Uttarā.
(Xem: 7150)
Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác, Hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác
(Xem: 8428)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Tôn Giả A-Nan.
(Xem: 6294)
Trích dịch Chương Thứ Nhất của Tác Phẩm “Buddhism - One Teacher, Many Traditions [Phật Giáo - Một Vị Thầy, Nhiều Truyền Thống]
(Xem: 8369)
Hồi đầu là quay đầu trở lại hay xoay đầu trở lại. Thị ngạn: chính ngay đó là bờ mé. Đây là một câu người học Phật thường nghe nói.
(Xem: 9400)
Đức Phật dạy giáo lý Nghiệp với mục đích khuyến khích con người thực hành các Nghiệp lành để trang nghiêm cho kiếp sống hiện tại và...
(Xem: 8366)
Bước ngoặt quan trọng nhất trong tiến trình nhận thức của con người có lẽ là khi chúng ta bắt đầu nhận thức về chính bản thân mình.
(Xem: 9343)
Cái Thấy là một biểu hiện của sức sống bản nhiên, là sinh lực thường hằng vượt lên trên mọi giới hạn về thời gian (lúc thức, lúc ngủ, khi sống và cả khi chết…)
(Xem: 7969)
Giáo pháp của Vimalakirti trình bày các giáo pháp tinh yếu của Phật giáo Đại thừa trong 14 chương tương đối ngắn.
(Xem: 7163)
Trung luận, do Bồ-tát Long Thọ làm ra. Được viết dưới dạng kệ tụng. Có khoảng 500 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu
(Xem: 9902)
Nói chung, không dễ gì lưu lại ngọc xá lợi, không dễ gì thành tựu đạo quả qua quá trình tu chứng với những kiếp tái sinh nối tiếp trong thiện đạo.
(Xem: 15037)
Này các Tỷ kheo, trong toàn thế giới, Thiên giới, Ma giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiênloài người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị ai chiến bại, toàn trí, toàn kiến, đại tự tại.
(Xem: 9412)
Khi thảo-luận về một ngón-tay, thì ngón-tay có phải là sự-thật không? Có phải chỉ có một ngón-tay duy-nhất, là có thể chỉ đúng vị-trí mặt trăng không?
(Xem: 7927)
Kim Cang dạy rất kỹ. Thấy “thường” đã sai mà thấy “đoạn” càng sai. Thấy có đã sai mà thấy không càng sai. Bồ tát thì “bất tận hữu vi bất trụ vô vi”.
(Xem: 7921)
Phu nhân Thắng Man sau khi phát mười hoằng thệ xong, trên hư không hoa trời liền rơi, nhạc trời liền trổi, chúng thấy điềm lành đó cũng đồng phát nguyện:
(Xem: 7974)
Ở trí địa Li cấu, bởi vì các bồ tátgiới hạnh toàn hảo, nên tự nhiên buông bỏ các hành vi sai lạc dù trong chiêm bao.
(Xem: 7910)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (chư Phật); chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử
(Xem: 7969)
Ngoại trừ các bậc tự chủ lẽ sống chết thì hầu hết chúng sanh đều không biết được thời điểm lâm chung của mình, nên khó có thể tự chủ tâm tư khi hấp hối.
(Xem: 7689)
Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 白隠 慧鶴?, January 19, 1686 - January 18, 1768) là một thiền sư Nhật nổi tiếng đã có công gây dựng lại dòng thiền Lâm Tế ở Nhật Bản
(Xem: 8697)
Vua A Xà Thế vốn là vị vua có tài, nhờ Phật chuyển hóanhận ra sai lầm, biết sám hối, ăn năn, làm mới lại chính mình, làm lại cuộc đời.
(Xem: 7927)
Muốn thấy được Phật tánh thì phải dừng nghiệp thức. Nghiệp thức không dừng không bao giờ chúng ta thấy được tánh Phật.
(Xem: 8440)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 10445)
Trong nền văn hóa 5000 năm của con người, mỗi con số không đơn thuần chỉ là con số khô khan mà tất cả con số đều có một ý nghĩa đặc biệt của vũ trụ huyền bí.
(Xem: 7999)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn? Các Chân lý cao quý về khổ, về nguồn gốc của khổ, về sự chấm dứt của khổ, và Chân lý cao quý về phương pháp dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
(Xem: 10969)
Trong kinh có ghi lý do Đức Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn đó là Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến...
(Xem: 8690)
Cùng một việc dứt thở, bỏ xác, tại sao ở người thế-gian, gọi là chết, còn ở Phật lại gọi là “nhập Niết-bàn”?
(Xem: 7826)
Sống, theo tính chất duyên sinh, là sống với, liên hệ với; không ai sống mà không có mối tương quan với người khác.
(Xem: 7501)
Vào đầu thế kỷ 12, quân Hồi giáo đã xâm chiếm Ấn-độ, với bản chất tàn bạo họ đã tàn sát các Tăng Ni, Phật tử, đốt sạch các Kinh điển Phật giáo...
(Xem: 8424)
Như Lai là một trong mười danh hiệu của Thế Tôn. Vậy thế nào là “Pháp” và tu học như thế nào để “thấy Pháp”.
(Xem: 7982)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của vũ trụ. Nó cao cả hơn một thượng đế nhân tạoloại bỏ những giáo điềuthần học.
(Xem: 8492)
Nhập Trung đạoCon đường Bồ tát tích hợp đại bitrí tuệ, khởi hành từ đại bi và tích hợp với tính bất nhị và tâm bồ đề.
(Xem: 7936)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật) Chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử (Chư Bồ tát)
(Xem: 7922)
Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Lu
(Xem: 7114)
Theo kinh điển Nguyên thủy của Phật giáo Nam tông, Bồ tát Đản sanh, Bồ tát thành Đạo và Phật nhập Niết-bàn đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch.
(Xem: 8327)
Tập tục dâng hương là một đạo lý truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, đây là những gia bảo tinh thần đáng quý của tổ tiên để lại cho con cháu kế thừa.
(Xem: 8124)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8222)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant