Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bốn Đức Tính Để Chiến Thắng (song ngữ)

Monday, May 9, 201618:21(View: 8237)
Bốn Đức Tính Để Chiến Thắng (song ngữ)
BỐN ĐỨC TÍNH ĐỂ CHIẾN THẮNG
Câu Chuyện Về Nữ Cư Sĩ Uttarā, Kệ 223 - Kho Báu Sự Thật,

Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero -
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  -
Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Four Forms Of Victories - The Story Of Uttarā The Lay-Disciple, Verse 223 - Treasury Of Truth,
Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Bốn Đức Tính Để Chiến Thắng (song ngữ)

BÀI KỆ 223:

223. Akkodhena jine kodhaṃ
asādhuṃ sādhunā jine
jine kadariyaṃ dānena
saccena alikavādinaṃ. (17:3)

223. Lấy sự bình an, thắng sự giận dữ,
Lấy lòng tốt, thắng lòng hung ác,
Lấy lòng bố thí, thắng lòng keo kiệt,
Lấy sự thật, thắng sự giả dối.

Trong khi cư trú tại Tu Viện Trúc Lâm (Veluvana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về một nữ cư sĩ, tên là Uttarā.

Uttarā là con gái của một người làm lao động trong trang trại có tên là Puñña và vợ của ông. Puñña làm việc cho một người đàn ông giàu có tên là Sumana, tại Vương Xá (Rājagaha). Một ngày kia, vợ chồng Puñña cúng dường thức ăn cho Tôn Giả Xá Lợi Phất (Sāriputta) ngay sau khi ngài vừa xuất-thiền ra khỏi tầng thiền sâu sắc Diệt Thọ Tưởng Định (nirodha samāpatti), và kết quả của việc làm thiện lành nầy là họ đột nhiên trở nên rất giàu có. Puñña trong khi đang cày trên một cánh đồng, ông đã may mắn kiếm được vàng, rồi được nhà vua chính thức phong ông là người-chủ ngân-hàng của hoàng-gia. Có một lần, gia đình của ông Puñña cúng dường thức ăn cho Đức Phậtchư tăng trong bẩy ngày, và vào ngày thứ bẩy, sau khi nghe xong bài giảng của Đức Phật, tất cả ba người trong gia đình của Puñña đã đạt Quả Nhập Lưu (Tu Đà Hoàn). Sau đó, Uttarā, con gái của Puñña, được gả cho con trai của người đàn ông giàu có Sumana. Gia đình Sumana không phải là Đạo Phật, và Uttarā không cảm thấy hạnh phúc trong gia đình chồng. Vì thế, cô nói với bố cô: "Bố ơi, tại sao bố đưa con đi nhốt vào cái nhà giam nầy? Ở đây, con chẳng trông thấy bất kỳ một nhà sư nào, cho nên con chẳng có cơ hội để cúng dường." Bố cô cảm thấy tiếc cho cô, nên ông gửi cho cô mười lăm ngàn tiền mặt. Sau khi nhận được sự cho phép của chồng, Uttarā dùng số tiền nầy mướn một cô gái điếm, để cô gái nầy phục vụ các nhu cầu của chồng cô. Người mà cô đã dàn xếp được là một cô gái điếm nổi tiếng, và rất xinh đẹp, tên cô là Sirimā, cô nầy sẽ thay cô làm vợ trong vòng mười lăm ngày.

Trong thời gian đó, Uttarā cúng dường thức ăn cho Đức Phậtchư tăng. Vào ngày thứ mười-lăm, trong khi cô đang bận rộn chuẩn bị thức ăn trong nhà bếp, chồng cô nhìn thấy cô qua cửa sổ phòng ngủ và mỉm cười, rồi anh lẩm bẩm một mình, "Vợ mình là một người thật ngu ngốc! Cô ta chẳng biết vui chơi hưởng thụ. Cô ta trông thật mệt mỏi với các buổi lễ cúng dường nầy!" Cô Sirimā nhìn thấy anh mỉm cười với vợ anh, và cô quên rằng cô chỉ là một người vợ-tạm-thời được trả tiền, cho nên cô cảm thấy rất ghen tị với Uttarā. Vì, cô không kiểm soát được bản thân, cô Sirimā đi vào nhà bếp, rồi cô cầm một cái môi-múc-canh chứa đầy bơ đun sôi, với ý định đổ bơ lên đầu của Uttarā. Uttarā trông thấy Sirimā bước tới, nhưng cô chẳng cảm thấy có ý xấu gì đối với Sirimā. Uttarā suy ngẫm rằng vì Sirimā đã chịu làm vợ-tạm-thời giúp cô, cho nên, cô đã có thể lắng nghe Phật Pháp, cúng dường thức ăn mười lăm ngày, và thực hiện các công tác từ thiện khác. Vì vậy Uttarā rất biết ơn Sirimā. Rồi, bất ngờ, Uttarā nhận ra rằng Sirimā đã đến rất gần bên cô, và cô Sirimā đang sửa soạn đổ bơ sôi nóng lên đầu cô; vì vậy, cô nghĩ một cách quả quyết như sau: "Nếu tôi có bất kỳ ý xấu nào đối với Sirimā thì cho bơ đang sôi nóng nầy đốt cháy tôi; còn nếu tôi không có bất kỳ ý xấu đối với Sirimā thì cho bơ đang sôi nóng nầy không đốt cháy tôi." Kết quả là bơ đang sôi nóng không làm hại gì cho cô Uttarā cả.

Sirimā sau đó, bày tỏ lòng mong muốn được gặp Đức Phật. Do đó, Sirimā đã được sắp xếp để cúng dường thức ăn đến Đức Phậtchư tăng, vào ngày hôm sau tại nhà của Uttarā. Sau bữa ăn, Đức Phật kể lại tất cả mọi chuyện đã xảy ra giữa Sirimā và Uttarā. Sirimā sau đó, thừa nhận cô đã làm điều sai trái đối với Uttarā, và cô khẩn nài Đức Phật giúp cô, xin Uttarā tha thứ cho cô, vì cô nghĩ, nếu không có ngài,  Uttarā sẽ không tha thứ cho cô. Đức Phật liền hỏi Uttarā trong tâm trícảm thấy như thế nào khi Sirimā đổ bơ đang sôi nóng lên đầu cô, và Uttarā đã trả lời, "Bạch Thế Tôn, bởi vì con còn nợ Sirimā rất nhiều, vì thế, con đã quyết tâm không để mất bình tĩnh, cho nên, con đã không có bất kỳ ý xấu nào đối với cô ấy. Hơn nữa, con còn gửi tình thương yêu của con đến cô ấy." Đức Phật liền nói: "Lành thay, thật là lành thay, Uttarā! Con không có bất kỳ ý xấu nào, nên con đã thắng người muốn làm hại con vì lòng thù hận. Con đối xử tốt đẹp, nên con đã thắng người ích kỷ, keo kiệt; con nói lên sự thật, nên con đã thắng người nói dối."

BÀI KỆ 223, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:

kodhaṃ akkodhena jine asādhuṃ sādhunā jine
kadariyaṃ dānena alikavādinaṃ saccena jine

kodhaṃ: người giận dữ; akkodhena: không giận dữ; jine: chinh phục; asādhuṃ: người không có đạo đức; sādhunā: (có) lòng tốt; jine: chinh phục; kadariyaṃ: sự keo kiệt; dānena: qua sự bố thí (chinh phục); alikavādinaṃ: người nói dối; saccena: bởi (bằng) sự thật; jine: chinh phục

Lấy sự bình an, thắng sự giận dữ. Lấy lòng tốt, thắng lòng hung ác. Lấy lòng bố thí, thắng lòng keo kiệt. Lấy sự thật, thắng sự giả dối.

Bài kệ 223 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ nhu sau:

(223) Lấy từ bi, lấy ôn hòa. Thắng cơn nóng giận bùng ra thét gầm. Lấy hiền lành, lấy thiện tâm. Thắng lòng hung ác bất nhân khó lường. Lấy tâm bố thí cúng dường. Thắng hàng keo kiệt, thắng phường tham lam. Lấy chân thật để đập tan. Những trò hư ngụy, dối gian ở đời.

BÌNH LUẬN

nirodha samāpatti: đạt được trạng thái yên tĩnh của Diệt Thọ Tưởng Định. Theo câu chuyện nầy, Puñña đã trở nên vô cùng giàu có, bởi vì ông đã cúng dường Tôn Giả Xá Lợi Phất (Sāriputta) ngay sau khi ngài xuất-thiền ra khỏi tầng thiền yên tĩnh sâu sắc Diệt Thọ Tưởng Định (nirodha samāpatti). Diệt cảm giác(thọ) và sự nhận biết(tưởng) (saññā vedayita nirodha) là tạm ngừng tất cả các hoạt động của tinh thần và của cái-biết.

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

 

SHORT TITLE:

The Story Of Uttarā The Lay-Disciple, Verse 223, Treasury Of Truth

FULL TITLE:

Four Forms Of Victories - The Story Of Uttarā The Lay-Disciple, Verse 223 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 223:

223. Akkodhena jine kodhaṃ
asādhuṃ sādhunā jine
jine kadariyaṃ dānena
saccena alikavādinaṃ. (17:3)

223. Anger conquer by amity,
evil conquer with good,
by giving conquer the miserly,
with truth the speakers of falsity.

While residing at the Veluvana Monastery, the Buddha spoke this verse with reference to Uttarā, a female lay-disciple.

Uttarā was the daughter of a farm labourer named Puñña and his wife. Puñña worked for a rich man named Sumana, in Rājagaha. One day, Puñña and his wife offered alms-food to Venerable Sāriputta soon after his arising from sustained deep mental absorption (nirodha samāpatti), and as a result of that good deed they suddenly became very rich. Puñña came upon gold in the field he was ploughing, and the king officially declared him a royal banker. On one occasion, the family of Puñña offered alms-food to the Buddha and the monks for seven days, and on the seventh day, after hearing the Buddha’s discourse, all the three members of the family attained sotāpatti fruition. Later, Uttarā, the daughter of Puñña, married the son of the rich man Sumana. That family being non-Buddhist, Uttarā did not feel happy in her husband’s home. So, she told her father, “My father, why have you put me in this cage? Here, I do not see any monk and I have no chance to offer anything to any monk.” Her father felt sorry for her and sent her fifteen thousand in cash. With this money, after getting permission from her husband, Uttarā engaged a courtesan to look to the needs of her husband. So it was arranged that Sirimā, a well-known and very beautiful courtesan, was to take her place as a wife for fifteen days.

During that time, Uttarā offered alms-food to the Buddha and the monks. On the fifteenth day, as she was busy preparing food in the kitchen, her husband saw her from the bedroom window and smiled, and then muttered to himself, “How foolish she is! She does not know how to enjoy herself. She is tiring herself out with this alms-giving ceremony!” Sirimā saw him smile, and forgetting that she was only a paid substitute wife felt very jealous of Uttarā. Being unable to control herself, Sirimā went into the kitchen and got a ladleful of boiling butter with the intention of pouring it over the head of Uttarā. Uttarā saw her coming, but she bore no ill will towards Sirimā. She reflected that because Sirimā had stood in for her, she had been able to listen to the dhamma, make offerings of alms-food for fifteen days, and perform other acts of charity. Thus she was quite thankful to Sirimā. Suddenly, she realized that Sirimā had come very close to her and was going to pour boiling-hot butter over her; so she made this asseveration: “If I bear any ill will towards Sirimā may this boiling-hot butter burn me; if I have no ill will towards her may it not burn me.” The boiling-hot butter did not harm her a bit.

Sirimā then expressed her wish to see the Buddha. So it was arranged that Sirimā should offer alms-food to the Buddha and the monks on the following day at the house of Uttarā. After the meal, the Buddha was told everything that had happened between Sirimā and Uttarā. Sirimā then owned up that she had done wrong to Uttarā and entreated the Buddha that she should be forgiven, for otherwise Uttarā would not forgive her. The Buddha then asked Uttarā how she felt in her mind when Sirimā poured boiling butter on her head, and Uttarā answered, “Venerable, because I owed so much to Sirimā I had resolved not to lose my temper, not to bear any ill will towards her. I sent forth my love towards her.” The Buddha then said, “Well done, well done, Uttarā! By not bearing any ill will you have been able to conquer one who has done you wrong through hate. By not abusing, you should conquer one who is a miser; by speaking the truth you should conquer one who tells lies.”

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 223)

kodhaṃ akkodhena jine asādhuṃ sādhunā jine
kadariyaṃ dānena alikavādinaṃ saccena jine

kodhaṃ: the angry person; akkodhena: with non-anger; jine: conquer; asādhuṃ: unvirtuous person; sādhunā: with goodness; jine: conquer; kadariyaṃ: the miserly; dānena: through charity (conquer); alikavādinaṃ: the liar; saccena: by truth; jine: conquer

Let anger be conquered by non-anger. Let bad ones be conquered by good. Let miserliness be overcome by charity. Let the liar be conquered by the truth.

COMMENTARY

nirodha samāpatti: attainment of the quiescence of cessation. Puñña became exceedingly rich according to this story because he offered alms to Venerable Sāriputta immediately after he arose from nirodha samāpatti (also described as deep mental rest). Cessation of feeling and perception (saññā vedayita nirodha) is the temporary suspension of all consciousness and mental activity.
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 8339)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(View: 10103)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(View: 9502)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(View: 8240)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(View: 8909)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(View: 7601)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(View: 8367)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(View: 10722)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(View: 8893)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(View: 9520)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(View: 8327)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(View: 9443)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(View: 9447)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(View: 8726)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(View: 9854)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(View: 10268)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(View: 9540)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(View: 9649)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(View: 7903)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(View: 10085)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(View: 9480)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(View: 8601)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(View: 10520)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(View: 10971)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(View: 9404)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(View: 9041)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(View: 8278)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(View: 10034)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(View: 8203)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(View: 16240)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(View: 7921)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(View: 8968)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(View: 13160)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(View: 8058)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(View: 12058)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(View: 9028)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(View: 8730)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(View: 8602)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(View: 9715)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(View: 8036)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(View: 18914)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
(View: 10102)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
(View: 8690)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
(View: 9751)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(View: 8201)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(View: 9069)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(View: 9951)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(View: 10152)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(View: 9965)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
(View: 8452)
Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật”
(View: 12109)
Trong những bộ Kinh chúng ta học thường thấy hai từ Giác NgộGiải Thoát. Tất cả người tu học đều lấy hai từ đó làm cứu cánh để đi tới.
(View: 9575)
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh đại thừa Phật giáo.
(View: 8951)
Thập hiệu Như Lai, là những danh hiệu cao quý để tôn xưng những bậc đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
(View: 8801)
Cầu nguyện là một phương pháp tâm linh giúp cho con người chúng ta có thể tháo gỡ một phần nào những nỗi khổ niềm đau,
(View: 8832)
Tam Bảo như lãnh vực hoạt động của mặt trời. Lòng bi mẫn của các ngài thì vô tư và không bao giờ cạn kiệt.
(View: 6784)
Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế...
(View: 8341)
Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.
(View: 8220)
Tất cả các tính đức là kết quả đến từ tinh tấn, nguyên nhân của hai tích tập phúc đứctrí tuệ. Trí địa thứ tư ngọn lửa trí huệ của...
(View: 8201)
Ngọn lửa trí tuệ phát ra ánh sáng khi đốt cháy các hiện tướng nhị nguyên đối đãi của các hiện tượng, do thế trí địa thứ ba được gọi là Phát quang địa.
(View: 9194)
Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM