Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Đức Tính Để Chiến Thắng (song ngữ)

09 Tháng Năm 201618:21(Xem: 7554)
Bốn Đức Tính Để Chiến Thắng (song ngữ)
BỐN ĐỨC TÍNH ĐỂ CHIẾN THẮNG
Câu Chuyện Về Nữ Cư Sĩ Uttarā, Kệ 223 - Kho Báu Sự Thật,

Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero -
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  -
Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Four Forms Of Victories - The Story Of Uttarā The Lay-Disciple, Verse 223 - Treasury Of Truth,
Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Bốn Đức Tính Để Chiến Thắng (song ngữ)

BÀI KỆ 223:

223. Akkodhena jine kodhaṃ
asādhuṃ sādhunā jine
jine kadariyaṃ dānena
saccena alikavādinaṃ. (17:3)

223. Lấy sự bình an, thắng sự giận dữ,
Lấy lòng tốt, thắng lòng hung ác,
Lấy lòng bố thí, thắng lòng keo kiệt,
Lấy sự thật, thắng sự giả dối.

Trong khi cư trú tại Tu Viện Trúc Lâm (Veluvana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về một nữ cư sĩ, tên là Uttarā.

Uttarā là con gái của một người làm lao động trong trang trại có tên là Puñña và vợ của ông. Puñña làm việc cho một người đàn ông giàu có tên là Sumana, tại Vương Xá (Rājagaha). Một ngày kia, vợ chồng Puñña cúng dường thức ăn cho Tôn Giả Xá Lợi Phất (Sāriputta) ngay sau khi ngài vừa xuất-thiền ra khỏi tầng thiền sâu sắc Diệt Thọ Tưởng Định (nirodha samāpatti), và kết quả của việc làm thiện lành nầy là họ đột nhiên trở nên rất giàu có. Puñña trong khi đang cày trên một cánh đồng, ông đã may mắn kiếm được vàng, rồi được nhà vua chính thức phong ông là người-chủ ngân-hàng của hoàng-gia. Có một lần, gia đình của ông Puñña cúng dường thức ăn cho Đức Phậtchư tăng trong bẩy ngày, và vào ngày thứ bẩy, sau khi nghe xong bài giảng của Đức Phật, tất cả ba người trong gia đình của Puñña đã đạt Quả Nhập Lưu (Tu Đà Hoàn). Sau đó, Uttarā, con gái của Puñña, được gả cho con trai của người đàn ông giàu có Sumana. Gia đình Sumana không phải là Đạo Phật, và Uttarā không cảm thấy hạnh phúc trong gia đình chồng. Vì thế, cô nói với bố cô: "Bố ơi, tại sao bố đưa con đi nhốt vào cái nhà giam nầy? Ở đây, con chẳng trông thấy bất kỳ một nhà sư nào, cho nên con chẳng có cơ hội để cúng dường." Bố cô cảm thấy tiếc cho cô, nên ông gửi cho cô mười lăm ngàn tiền mặt. Sau khi nhận được sự cho phép của chồng, Uttarā dùng số tiền nầy mướn một cô gái điếm, để cô gái nầy phục vụ các nhu cầu của chồng cô. Người mà cô đã dàn xếp được là một cô gái điếm nổi tiếng, và rất xinh đẹp, tên cô là Sirimā, cô nầy sẽ thay cô làm vợ trong vòng mười lăm ngày.

Trong thời gian đó, Uttarā cúng dường thức ăn cho Đức Phậtchư tăng. Vào ngày thứ mười-lăm, trong khi cô đang bận rộn chuẩn bị thức ăn trong nhà bếp, chồng cô nhìn thấy cô qua cửa sổ phòng ngủ và mỉm cười, rồi anh lẩm bẩm một mình, "Vợ mình là một người thật ngu ngốc! Cô ta chẳng biết vui chơi hưởng thụ. Cô ta trông thật mệt mỏi với các buổi lễ cúng dường nầy!" Cô Sirimā nhìn thấy anh mỉm cười với vợ anh, và cô quên rằng cô chỉ là một người vợ-tạm-thời được trả tiền, cho nên cô cảm thấy rất ghen tị với Uttarā. Vì, cô không kiểm soát được bản thân, cô Sirimā đi vào nhà bếp, rồi cô cầm một cái môi-múc-canh chứa đầy bơ đun sôi, với ý định đổ bơ lên đầu của Uttarā. Uttarā trông thấy Sirimā bước tới, nhưng cô chẳng cảm thấy có ý xấu gì đối với Sirimā. Uttarā suy ngẫm rằng vì Sirimā đã chịu làm vợ-tạm-thời giúp cô, cho nên, cô đã có thể lắng nghe Phật Pháp, cúng dường thức ăn mười lăm ngày, và thực hiện các công tác từ thiện khác. Vì vậy Uttarā rất biết ơn Sirimā. Rồi, bất ngờ, Uttarā nhận ra rằng Sirimā đã đến rất gần bên cô, và cô Sirimā đang sửa soạn đổ bơ sôi nóng lên đầu cô; vì vậy, cô nghĩ một cách quả quyết như sau: "Nếu tôi có bất kỳ ý xấu nào đối với Sirimā thì cho bơ đang sôi nóng nầy đốt cháy tôi; còn nếu tôi không có bất kỳ ý xấu đối với Sirimā thì cho bơ đang sôi nóng nầy không đốt cháy tôi." Kết quả là bơ đang sôi nóng không làm hại gì cho cô Uttarā cả.

Sirimā sau đó, bày tỏ lòng mong muốn được gặp Đức Phật. Do đó, Sirimā đã được sắp xếp để cúng dường thức ăn đến Đức Phậtchư tăng, vào ngày hôm sau tại nhà của Uttarā. Sau bữa ăn, Đức Phật kể lại tất cả mọi chuyện đã xảy ra giữa Sirimā và Uttarā. Sirimā sau đó, thừa nhận cô đã làm điều sai trái đối với Uttarā, và cô khẩn nài Đức Phật giúp cô, xin Uttarā tha thứ cho cô, vì cô nghĩ, nếu không có ngài,  Uttarā sẽ không tha thứ cho cô. Đức Phật liền hỏi Uttarā trong tâm trícảm thấy như thế nào khi Sirimā đổ bơ đang sôi nóng lên đầu cô, và Uttarā đã trả lời, "Bạch Thế Tôn, bởi vì con còn nợ Sirimā rất nhiều, vì thế, con đã quyết tâm không để mất bình tĩnh, cho nên, con đã không có bất kỳ ý xấu nào đối với cô ấy. Hơn nữa, con còn gửi tình thương yêu của con đến cô ấy." Đức Phật liền nói: "Lành thay, thật là lành thay, Uttarā! Con không có bất kỳ ý xấu nào, nên con đã thắng người muốn làm hại con vì lòng thù hận. Con đối xử tốt đẹp, nên con đã thắng người ích kỷ, keo kiệt; con nói lên sự thật, nên con đã thắng người nói dối."

BÀI KỆ 223, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:

kodhaṃ akkodhena jine asādhuṃ sādhunā jine
kadariyaṃ dānena alikavādinaṃ saccena jine

kodhaṃ: người giận dữ; akkodhena: không giận dữ; jine: chinh phục; asādhuṃ: người không có đạo đức; sādhunā: (có) lòng tốt; jine: chinh phục; kadariyaṃ: sự keo kiệt; dānena: qua sự bố thí (chinh phục); alikavādinaṃ: người nói dối; saccena: bởi (bằng) sự thật; jine: chinh phục

Lấy sự bình an, thắng sự giận dữ. Lấy lòng tốt, thắng lòng hung ác. Lấy lòng bố thí, thắng lòng keo kiệt. Lấy sự thật, thắng sự giả dối.

Bài kệ 223 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ nhu sau:

(223) Lấy từ bi, lấy ôn hòa. Thắng cơn nóng giận bùng ra thét gầm. Lấy hiền lành, lấy thiện tâm. Thắng lòng hung ác bất nhân khó lường. Lấy tâm bố thí cúng dường. Thắng hàng keo kiệt, thắng phường tham lam. Lấy chân thật để đập tan. Những trò hư ngụy, dối gian ở đời.

BÌNH LUẬN

nirodha samāpatti: đạt được trạng thái yên tĩnh của Diệt Thọ Tưởng Định. Theo câu chuyện nầy, Puñña đã trở nên vô cùng giàu có, bởi vì ông đã cúng dường Tôn Giả Xá Lợi Phất (Sāriputta) ngay sau khi ngài xuất-thiền ra khỏi tầng thiền yên tĩnh sâu sắc Diệt Thọ Tưởng Định (nirodha samāpatti). Diệt cảm giác(thọ) và sự nhận biết(tưởng) (saññā vedayita nirodha) là tạm ngừng tất cả các hoạt động của tinh thần và của cái-biết.

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

 

SHORT TITLE:

The Story Of Uttarā The Lay-Disciple, Verse 223, Treasury Of Truth

FULL TITLE:

Four Forms Of Victories - The Story Of Uttarā The Lay-Disciple, Verse 223 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 223:

223. Akkodhena jine kodhaṃ
asādhuṃ sādhunā jine
jine kadariyaṃ dānena
saccena alikavādinaṃ. (17:3)

223. Anger conquer by amity,
evil conquer with good,
by giving conquer the miserly,
with truth the speakers of falsity.

While residing at the Veluvana Monastery, the Buddha spoke this verse with reference to Uttarā, a female lay-disciple.

Uttarā was the daughter of a farm labourer named Puñña and his wife. Puñña worked for a rich man named Sumana, in Rājagaha. One day, Puñña and his wife offered alms-food to Venerable Sāriputta soon after his arising from sustained deep mental absorption (nirodha samāpatti), and as a result of that good deed they suddenly became very rich. Puñña came upon gold in the field he was ploughing, and the king officially declared him a royal banker. On one occasion, the family of Puñña offered alms-food to the Buddha and the monks for seven days, and on the seventh day, after hearing the Buddha’s discourse, all the three members of the family attained sotāpatti fruition. Later, Uttarā, the daughter of Puñña, married the son of the rich man Sumana. That family being non-Buddhist, Uttarā did not feel happy in her husband’s home. So, she told her father, “My father, why have you put me in this cage? Here, I do not see any monk and I have no chance to offer anything to any monk.” Her father felt sorry for her and sent her fifteen thousand in cash. With this money, after getting permission from her husband, Uttarā engaged a courtesan to look to the needs of her husband. So it was arranged that Sirimā, a well-known and very beautiful courtesan, was to take her place as a wife for fifteen days.

During that time, Uttarā offered alms-food to the Buddha and the monks. On the fifteenth day, as she was busy preparing food in the kitchen, her husband saw her from the bedroom window and smiled, and then muttered to himself, “How foolish she is! She does not know how to enjoy herself. She is tiring herself out with this alms-giving ceremony!” Sirimā saw him smile, and forgetting that she was only a paid substitute wife felt very jealous of Uttarā. Being unable to control herself, Sirimā went into the kitchen and got a ladleful of boiling butter with the intention of pouring it over the head of Uttarā. Uttarā saw her coming, but she bore no ill will towards Sirimā. She reflected that because Sirimā had stood in for her, she had been able to listen to the dhamma, make offerings of alms-food for fifteen days, and perform other acts of charity. Thus she was quite thankful to Sirimā. Suddenly, she realized that Sirimā had come very close to her and was going to pour boiling-hot butter over her; so she made this asseveration: “If I bear any ill will towards Sirimā may this boiling-hot butter burn me; if I have no ill will towards her may it not burn me.” The boiling-hot butter did not harm her a bit.

Sirimā then expressed her wish to see the Buddha. So it was arranged that Sirimā should offer alms-food to the Buddha and the monks on the following day at the house of Uttarā. After the meal, the Buddha was told everything that had happened between Sirimā and Uttarā. Sirimā then owned up that she had done wrong to Uttarā and entreated the Buddha that she should be forgiven, for otherwise Uttarā would not forgive her. The Buddha then asked Uttarā how she felt in her mind when Sirimā poured boiling butter on her head, and Uttarā answered, “Venerable, because I owed so much to Sirimā I had resolved not to lose my temper, not to bear any ill will towards her. I sent forth my love towards her.” The Buddha then said, “Well done, well done, Uttarā! By not bearing any ill will you have been able to conquer one who has done you wrong through hate. By not abusing, you should conquer one who is a miser; by speaking the truth you should conquer one who tells lies.”

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 223)

kodhaṃ akkodhena jine asādhuṃ sādhunā jine
kadariyaṃ dānena alikavādinaṃ saccena jine

kodhaṃ: the angry person; akkodhena: with non-anger; jine: conquer; asādhuṃ: unvirtuous person; sādhunā: with goodness; jine: conquer; kadariyaṃ: the miserly; dānena: through charity (conquer); alikavādinaṃ: the liar; saccena: by truth; jine: conquer

Let anger be conquered by non-anger. Let bad ones be conquered by good. Let miserliness be overcome by charity. Let the liar be conquered by the truth.

COMMENTARY

nirodha samāpatti: attainment of the quiescence of cessation. Puñña became exceedingly rich according to this story because he offered alms to Venerable Sāriputta immediately after he arose from nirodha samāpatti (also described as deep mental rest). Cessation of feeling and perception (saññā vedayita nirodha) is the temporary suspension of all consciousness and mental activity.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9318)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
(Xem: 7964)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 8947)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(Xem: 7563)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(Xem: 8223)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(Xem: 9222)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(Xem: 9316)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(Xem: 9002)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
(Xem: 7734)
Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật”
(Xem: 11324)
Trong những bộ Kinh chúng ta học thường thấy hai từ Giác NgộGiải Thoát. Tất cả người tu học đều lấy hai từ đó làm cứu cánh để đi tới.
(Xem: 8807)
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh đại thừa Phật giáo.
(Xem: 8247)
Thập hiệu Như Lai, là những danh hiệu cao quý để tôn xưng những bậc đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
(Xem: 8126)
Cầu nguyện là một phương pháp tâm linh giúp cho con người chúng ta có thể tháo gỡ một phần nào những nỗi khổ niềm đau,
(Xem: 8114)
Tam Bảo như lãnh vực hoạt động của mặt trời. Lòng bi mẫn của các ngài thì vô tư và không bao giờ cạn kiệt.
(Xem: 6353)
Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế...
(Xem: 7742)
Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.
(Xem: 7553)
Tất cả các tính đức là kết quả đến từ tinh tấn, nguyên nhân của hai tích tập phúc đứctrí tuệ. Trí địa thứ tư ngọn lửa trí huệ của...
(Xem: 7525)
Ngọn lửa trí tuệ phát ra ánh sáng khi đốt cháy các hiện tướng nhị nguyên đối đãi của các hiện tượng, do thế trí địa thứ ba được gọi là Phát quang địa.
(Xem: 8536)
Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp.
(Xem: 8048)
Như Lai thọ lượng là phẩm thứ 16 của kinh Pháp Hoa.
(Xem: 8436)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về chư tăng.
(Xem: 11267)
Đối với nhiều người, Phật Giáo vượt ra ngoài tôn giáo và là một triết lý hay "lối sống" hơn. Đó là một triết lý, vì triết lý “có nghĩa là tình yêu của trí tuệ”
(Xem: 8421)
Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội, thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác, cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.
(Xem: 7150)
Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác, Hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác
(Xem: 8428)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Tôn Giả A-Nan.
(Xem: 6294)
Trích dịch Chương Thứ Nhất của Tác Phẩm “Buddhism - One Teacher, Many Traditions [Phật Giáo - Một Vị Thầy, Nhiều Truyền Thống]
(Xem: 8369)
Hồi đầu là quay đầu trở lại hay xoay đầu trở lại. Thị ngạn: chính ngay đó là bờ mé. Đây là một câu người học Phật thường nghe nói.
(Xem: 9400)
Đức Phật dạy giáo lý Nghiệp với mục đích khuyến khích con người thực hành các Nghiệp lành để trang nghiêm cho kiếp sống hiện tại và...
(Xem: 8366)
Bước ngoặt quan trọng nhất trong tiến trình nhận thức của con người có lẽ là khi chúng ta bắt đầu nhận thức về chính bản thân mình.
(Xem: 9343)
Cái Thấy là một biểu hiện của sức sống bản nhiên, là sinh lực thường hằng vượt lên trên mọi giới hạn về thời gian (lúc thức, lúc ngủ, khi sống và cả khi chết…)
(Xem: 7969)
Giáo pháp của Vimalakirti trình bày các giáo pháp tinh yếu của Phật giáo Đại thừa trong 14 chương tương đối ngắn.
(Xem: 7163)
Trung luận, do Bồ-tát Long Thọ làm ra. Được viết dưới dạng kệ tụng. Có khoảng 500 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu
(Xem: 9902)
Nói chung, không dễ gì lưu lại ngọc xá lợi, không dễ gì thành tựu đạo quả qua quá trình tu chứng với những kiếp tái sinh nối tiếp trong thiện đạo.
(Xem: 15037)
Này các Tỷ kheo, trong toàn thế giới, Thiên giới, Ma giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiênloài người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị ai chiến bại, toàn trí, toàn kiến, đại tự tại.
(Xem: 9412)
Khi thảo-luận về một ngón-tay, thì ngón-tay có phải là sự-thật không? Có phải chỉ có một ngón-tay duy-nhất, là có thể chỉ đúng vị-trí mặt trăng không?
(Xem: 7927)
Kim Cang dạy rất kỹ. Thấy “thường” đã sai mà thấy “đoạn” càng sai. Thấy có đã sai mà thấy không càng sai. Bồ tát thì “bất tận hữu vi bất trụ vô vi”.
(Xem: 7921)
Phu nhân Thắng Man sau khi phát mười hoằng thệ xong, trên hư không hoa trời liền rơi, nhạc trời liền trổi, chúng thấy điềm lành đó cũng đồng phát nguyện:
(Xem: 7974)
Ở trí địa Li cấu, bởi vì các bồ tátgiới hạnh toàn hảo, nên tự nhiên buông bỏ các hành vi sai lạc dù trong chiêm bao.
(Xem: 7910)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (chư Phật); chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử
(Xem: 7969)
Ngoại trừ các bậc tự chủ lẽ sống chết thì hầu hết chúng sanh đều không biết được thời điểm lâm chung của mình, nên khó có thể tự chủ tâm tư khi hấp hối.
(Xem: 7689)
Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 白隠 慧鶴?, January 19, 1686 - January 18, 1768) là một thiền sư Nhật nổi tiếng đã có công gây dựng lại dòng thiền Lâm Tế ở Nhật Bản
(Xem: 8697)
Vua A Xà Thế vốn là vị vua có tài, nhờ Phật chuyển hóanhận ra sai lầm, biết sám hối, ăn năn, làm mới lại chính mình, làm lại cuộc đời.
(Xem: 7927)
Muốn thấy được Phật tánh thì phải dừng nghiệp thức. Nghiệp thức không dừng không bao giờ chúng ta thấy được tánh Phật.
(Xem: 8440)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 10445)
Trong nền văn hóa 5000 năm của con người, mỗi con số không đơn thuần chỉ là con số khô khan mà tất cả con số đều có một ý nghĩa đặc biệt của vũ trụ huyền bí.
(Xem: 7999)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn? Các Chân lý cao quý về khổ, về nguồn gốc của khổ, về sự chấm dứt của khổ, và Chân lý cao quý về phương pháp dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
(Xem: 10969)
Trong kinh có ghi lý do Đức Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn đó là Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến...
(Xem: 8690)
Cùng một việc dứt thở, bỏ xác, tại sao ở người thế-gian, gọi là chết, còn ở Phật lại gọi là “nhập Niết-bàn”?
(Xem: 7826)
Sống, theo tính chất duyên sinh, là sống với, liên hệ với; không ai sống mà không có mối tương quan với người khác.
(Xem: 7501)
Vào đầu thế kỷ 12, quân Hồi giáo đã xâm chiếm Ấn-độ, với bản chất tàn bạo họ đã tàn sát các Tăng Ni, Phật tử, đốt sạch các Kinh điển Phật giáo...
(Xem: 8424)
Như Lai là một trong mười danh hiệu của Thế Tôn. Vậy thế nào là “Pháp” và tu học như thế nào để “thấy Pháp”.
(Xem: 7982)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của vũ trụ. Nó cao cả hơn một thượng đế nhân tạoloại bỏ những giáo điềuthần học.
(Xem: 8492)
Nhập Trung đạoCon đường Bồ tát tích hợp đại bitrí tuệ, khởi hành từ đại bi và tích hợp với tính bất nhị và tâm bồ đề.
(Xem: 7936)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật) Chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử (Chư Bồ tát)
(Xem: 7922)
Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Lu
(Xem: 7114)
Theo kinh điển Nguyên thủy của Phật giáo Nam tông, Bồ tát Đản sanh, Bồ tát thành Đạo và Phật nhập Niết-bàn đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch.
(Xem: 8327)
Tập tục dâng hương là một đạo lý truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, đây là những gia bảo tinh thần đáng quý của tổ tiên để lại cho con cháu kế thừa.
(Xem: 8124)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8222)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
(Xem: 9083)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant