Nguyệt Xứng (c. 570 - 650)
NHẬP TRUNG ĐẠO:
CON ĐƯỜNG BỒ TÁT TÍCH HỢP ĐẠI BI VÀ TRÍ TUỆ
Phát quang địa (Bài 6)
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: Introduction to the Middle Way. Chandrakirti’s Madhyamakavatara with Commentary by Jamgon Mipham.
Translated by The Padmakara Translation Group (2002). Shambhala, 2004.
Nguyệt Xứng. Các kệ tụng Nhập Trung Đạo
III.1. Ngọn lửa trí tuệ phát ra ánh sáng khi đốt cháy các hiện tướng nhị nguyên đối đãi của các hiện tượng, do thế trí địa thứ ba được gọi là Phát quang địa.
Các người con của Đấng Tối Thắng khi xuất định thấy hiện tướng màu vàng đồng tương tợ mặt trời mọc trước buổi bình minh.
III.2. Các Bồ tát tuy không sai trái nhưng các kẻ thù ghét họ vẫn có thể tra tấn, cắt xẻ thân họ trong một thời gian dài.
Mặc dù đau đớn, các Bồ tát vẫn nhẫn đối với các kẻ sân hận.
III.3. Các Bồ tát thấy không có ngã, không có kẻ tra tấn, kẻ bị tra tấn, thời gian, cách thức tra tấn.
Tất cả các sự - vật thì tương tợ các hình ảnh phản chiếu trong gương, do thế các Bồ tát thể hiện nhẫn đối với các sự tra tấn.
III.4. Khi một kẻ khác làm tổn hại bạn, nếu bạn đáp ứng trong giận dữ, có phải cơn giận lớn này tống xuất được các tổn hại đã áp đặt vào bạn?
Sự xem là tổn thương cay đắng thì chẳng tốt chi cho đời này, và còn đem tới các đối nghịch trong các đời sau.
III.5. Bị các tổn hại, bạn có thể xem như đã trả hết các kết quả của các hành vi sai trái bạn đã tạo trong quá khứ.
Nhưng khi làm tổn thương các kẻ khác, nó là nguồn gốc của đau thương vì bạn gieo các hạt giống cho đau buồn tương lai
III.6 . Khi bạn nổi giận với người con của Đấng Tối Thắng, các phúc đức bạn tích tập qua bố thí và giới hạnh trong một trăm kiếp bị tiêu hủy tức thời.
Không một cái gì độc ác nhiều hơn phẫn nộ.
III.7. Khi bạn nhẫn tâm, dung nhan và hình dáng của bạn thành xấu xí và bạn đi đến các trạng thái ác độc, tâm trí không còn phân biệt thiện ác.
Nhẫn tâm mau đưa bạn tái sinh các cõi thấp kém; nhẫn là nơi khởi đầu của các điều tốt đẹp.
III.8. Nhẫn làm bạn đẹp và thân cận với các thánh hiền, nhận biết sáng tỏ những gì tốt, đúng, và không tốt, không đúng.
Và các đời sau, sẽ sinh làm người hoặc làm trời, và không có tính tiêu cực.
III.9. Chúng ta nên nhận biết các tai hại của phẫn nộ nơi các kẻ thường tục và các tính đức tốt lành của nhẫn nơi các Bồ tát.
Hãy mau chóng buông bỏ phẫn nộ, và luôn luôn thực hành nhẫn mà các thánh hiền ca tụng.
III.10. Khi tu tập nhẫn mà bạn thệ nguyện giữ cho tới khi thành Phật, nếu bạn thấy 3 phương diện -- tôi, kẻ nhẫn, sự nhẫn, nhẫn với ai -- thì nó là nhẫn thế tục.
Đức Phật giảng kẻ tu tập nhẫn mà không chấp thủ 3 phương diện là nhẫn toàn hảo, siêu việt thế tục.
III.11. Các Bồ tát ở trí địa nay có lục thông và tam ma đề (Samadhi; chính định; tam muội), đoạn trừ hoàn toàn tham luyến và phẫn nộ.
Các Bồ tát có năng lực làm tiết giảm các tham luyến của các kẻ thường tục.
III.12. Đức Phật khen ngợi các kẻ thường tục đã thực hành ba pháp bố thí, giới hạnh và nhẫn.
Chúng tạo thành tích tập phúc đức, nguyên nhân của Sắc Thân của Phật (gồm Báo Thân và Ứng Hoá Thân).
III.13. Phát quang này, an trú trong mặt trời, các người con của đấng Tối Thắng, đoạn trừ tất cả bóng tối trong họ, và nguyện đoạn trừ bóng tối cho các hữu tình.
Nơi trí địa này, họ nhận biết tinh tế các hiện tượng / biến cố, nhưng không phẫn nộ với các sai lầm của các kẻ khác.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Sơ đồ Bản Giải thích
III. Trí địa thứ ba: Phát quang
A. Định nghĩa của trí địa thứ ba
B. Các tính đức đặc biệt của trí địa này
1. Toàn hảo của nhẫn
a. Nhẫn thì siêu việt về phúc đức, ảnh hưởng … trên trí địa thứ ba
b. Làm cách nào để đào luyện nhẫn
i. Thiền định về nhẫn trên phương diện chân lí tối hậu
ii. Thiền định trên nhẫn trên phương diện của chân lí tương đối
(1) Các khiếm khuyết của phẫn nộ
(a) Tính vô giá trị và vô nghĩa của phẫn nộ
(b) Thiếu ý thức, vì thế làm tình cảnh lợi ích thành tổn hại
(c) Giận dữ là tính tiêu cực hạng nặng
(d) Giận dữ là nguồn gốc của nhiều bất lợi trong đời này và các đời tương lai
(2) Các lợi ích của nhẫn
(3) Quy kết tóm tắt về các khiếm khuyết của giận dữ và các ưu thế của nhẫn
c. Phân loại nhẫn
2. Miêu tả về các tính đức khác hiển thị trên trí địa này
C. Kết luận: các tính đức của trí địa này
1. Kết luận chung cho ba toàn hảo của trí địa thứ nhất, thứ nhì và thứ ba
2. Kết luận chuyên biệt cho trí địa thứ ba
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
III. Trí địa thứ ba: Phát quang
Phần này gồm có ba chủ đề: định nghĩa của trí địa thứ ba, các tính đức đặc biệt của nó, và một quy kết tóm tắt. Chủ đề thứ nhì gồm có hai mục chính: toàn hảo của nhẫn, và miêu tả về các tính đức khác mà chúng hiển thị trên trí địa này.
A. Định nghĩa của trí địa thứ ba
Tụng III.1
III.1. Ngọn lửa trí tuệ phát ra ánh sáng khi đốt cháy các hiện tướng nhị nguyên đối đãi của các hiện tượng, do thế trí địa thứ ba được gọi là Phát quang địa.
Các người con của Đấng Tối Thắng khi xuất định thấy hiện tướng màu vàng đồng tương tợ mặt trời mọc trước buổi bình minh.
Trí địa thứ ba được gọi là Phát Quang bởi vì ở đây lửa trí tuệ đốt cháy hết các chất dễ cháy của các hiện tượng và phát ra ánh sáng rực rỡ và, trong định tâm (samahita; meditative equipoise), có năng lực làm tĩnh an tất cả các cấu trúc của tưởng quan liên đến các tri nhận về hiện tướng nhị nguyên đối đãi. Trên trí địa này, được thấy trong trải nghiệm sau thiền định của Bồ tát, con của Đấng Tối Thắng, sự phát ánh sáng màu đồng như vào rạng đông trước khi mặt trời mọc.
B. Các tính đức đặc biệt của trí địa này
1. Toàn hảo của nhẫn
a. Nhẫn thì siêu việt về phúc đức, ảnh hưởng … trên trí địa thứ ba
Tụng III.2
III.2. Các Bồ tát tuy không sai trái nhưng các kẻ thù ghét họ vẫn có thể tra tấn, cắt xẻ thân họ trong một thời gian dài.
Mặc dù đau đớn, các Bồ tát vẫn nhẫn đối với các kẻ sân hận.
Các Bồ tát có thể, tuy không tạo ra bất kì sự kích động phẫn nộ nào, trở thành nạn nhân của các kẻ tấn công, hành hạ họ, cắt xẻ da thịt họ, đánh gãy xương họ trong các tra tấn kéo dài. Nhưng tất cả tính tàn bạo như thế chỉ làm tăng gia năng lực của nhẫn lớn lao của họ.
b. Làm cách nào để đào luyện nhẫn
i. Thiền định về nhẫn trên phương diện chân lí tối hậu
Tụng III.3.
III.3. Các Bồ tát thấy không có ngã, không có kẻ tra tấn, kẻ bị tra tấn, thời gian, cách thức tra tấn.
Tất cả các sự - vật thì tương tợ các hình ảnh phản chiếu trong gương, thế nên các Bồ tát thể hiện nhẫn đối với các sự tra tấn.
Hơn nữa, bởi vì các Bồ tát đã thật chứng sự phi hiện hữu của ngã, họ thấy rằng nạn nhân, kẻ tra tấn, thời gian, và cách thức -- tất cả các hiện tượng như vậy -- đều tương tợ một phản chiếu trong một tấm gương, do từ nơi đó sự nhẫn của họ tăng trưởng lớn hơn.
ii. Thiền định trên nhẫn trên phương diện của chân lí tương đối
(1) Các khiếm khuyết của phẫn nộ
(a) Tính vô giá trị và vô nghĩa của phẫn nộ
Tụng III.4
III.4. Khi một kẻ khác làm tổn hại bạn, nếu bạn đáp ứng trong giận dữ, có phải cơn giận lớn này tống xuất được các tổn hại đã áp đặt vào bạn?
Sự xem là tổn thương cay đắng thì chẳng tốt chi cho đời này, và còn đem tới các đối nghịch trong các đời sau.
Nếu khi bị tấn công, bạn giận dữ với kẻ tấn công, bạn nên hỏi mình: Có phải giận dữ nhổ sạch các tổn hại đã xâm phạm vào bạn? Điều rõ ràng là sự phục thù thì vô ích cho đời này, và sinh ra chuyện không tốt cho đời sắp tới. Bởi vì sự giận dữ mà nay cứ thả lỏng sẽ kết quả thành các tình cảnh không tốt trong các đời sống tương lai.
(b) Thiếu ý thức, vì thế làm tình cảnh lợi ích thành tổn hại
Tụng III.5.
III.5. Bị các tổn hại, bạn có thể xem đã trả xong các kết quả của các hành vi sai trái bạn đã tạo trong quá khứ.
Nhưng khi làm tổn thương các kẻ khác, nó là nguồn gốc của đau thương vì bạn gieo các hạt giống cho đau buồn tương lai.
Mọi người thường nói các tổn hại bị áp đặt vào mình thì làm kiệt sức các kết quả của các hành nghiệp tiêu cực đã làm trong quá khứ. Về mặt khác, nếu bạn phản ứng giận dữ và tấn công lại kẻ tấn công, sẽ chỉ sinh ra sự đau khổ của chính bạn. Bởi vì giận dữ chỉ tạo ra nguyên nhân, gieo trồng hạt giống của tương lai sầu muộn. Thật là vô ý thức khi biến đổi một tình cảnh tích cực thành tiêu cực.
(c) Giận dữ là tính tiêu cực hạng nặng
Tụng III.6.
III.6 . Khi bạn nổi giận với người con của Đấng Tối Thắng, các phúc đức bạn tích tập qua bố thí và kỉ luật đạo đức trong một trăm kiếp bị tiêu hủy tức thời.
Không một cái gì độc ác nhiều hơn phẫn nộ.
Hơn nữa, chỉ một sát na giận dữ đối với một Bồ tát thì tức thời phá hủy phúc đức được tích tập do bố thí và kỉ luật đạo đức trên một trăm kiếp. Kết quả là không có cái gì độc ác tạo ra các nguyên nhân phá hủy nhiều hơn là giận dữ và bất nhẫn. Nói đặc biệt chính xác hơn, nếu một Bồ tát giận dữ chống lại một Bồ tát khác cùng cấp bậc, phúc đức của một trăm kiếp bị phá hủy. Nhưng nếu bạn không là một Bồ tát mà giận dữ với một Bồ tát, thì chắc chắn là phá hủy phúc đức của một ngàn kiếp. Ngay cả nếu họ không tỏ lộ các cảm giác của họ thành lời nói và hành động, các Bồ tát mà giận dữ với các Bồ tát khác phải “mặc áo giáp” suốt nhiều kiếp vì họ đã trải nghiệm các sát na giận dữ. Tỉ dụ, nếu các Bồ tát có khả năng tiến nhanh từ tư lương đạo tới gia hành đạo mà thả lỏng họ trong giận dữ chống lại một Bồ tát kẻ đã “được thọ kí” ( “received the prophecy”), họ sẽ bị ngăn cái bước này cho một số lượng kiếp tương đương các sát na họ giận dữ. Họ phải bắt đầu sự đào luyện từ sự khởi đầu trở lại.
(d) Giận dữ là nguồn gốc của nhiều bất lợi trong đời này và các đời tương lai
Tụng III.7
III.7. Khi bạn nhẫn tâm, dung nhan và hình dáng của bạn thành ra xấu xí và bạn đi đến các trạng thái ác độc, tâm trí không còn phân biệt thiện ác.
Nhẫn tâm mau đưa bạn tái sinh các cõi thấp kém; nhẫn là nơi khởi đầu của các điều tốt đẹp.
Chỉ thuần sự trào dâng của giận dữ làm cho dung nhan của bạn thành xấu xí và dẫn đến các phản đề của tất cả cái gì trong sạch và tốt lành (antithesis of all that is wholesome). Giận dữ phá hủy khả năng bạn hành sử thông minh và biết phân biệt điều gì thích hợp, điều gì không thích hợp; nó là một sức mạnh mù quáng làm bạn không còn tỉnh táo bình tĩnh. Do giận dữ nên mất khả năng nhẫn với các tình cảnh, sẽ ném các hữu tình vào các cõi tái sinh thấp kém trong các đời sống tương lai của họ. Thật là quan trọng khi nghĩ về các khiếm khuyết này và đào luyện nhẫn.
(2) Các lợi ích của nhẫn
Nhẫn đối trị các khiếm khuyết của giận dữ được miêu tả ở trên và đem lại các tính đức đối nghịch.
Tụng III.8
III.8. Nhẫn làm bạn đẹp và thân cận với các thánh hiền, nhận biết sáng tỏ những gì tốt, đúng, và không tốt, không đúng.
Và các đời sau, sẽ sinh làm người hoặc làm trời, và không có tính tiêu cực.
Nếu bạn thực hành nhẫn, bạn sẽ có một hình dáng xinh đẹp và có sự cảm mến của các thánh hiền, và bạn sẽ có khả năng nhận biết sáng tỏ một cách tinh tế giữa cái gì đúng và cái gì sai. Sau khi chết, bạn sẽ tái sinh trong cõi người hoặc các cõi trời và không trải nghiệm giận dữ hoặc bất kì tính tiêu cực nào khác.
(3) Quy kết tóm tắt về các khiếm khuyết của giận dữ và các ưu thế của nhẫn
Tụng III.9
III.9. Chúng ta nên nhận biết các tai hại của phẫn nộ nơi các kẻ thường tục và các tính đức tốt lành của nhẫn nơi các Bồ tát.
Hãy mau chóng buông bỏ phẫn nộ, và luôn luôn thực hành nhẫn mà các thánh hiền ca tụng.
Các kẻ thường tục và các Bồ tát, các người con của các đấng Tối Thắng, nên nhận biết sáng tỏ về các khiếm khuyết của giận dữ và các ưu thế của sự đào luyện nhẫn. Họ phải đoạn trừ phẫn nộ và liên tục tu tập nhẫn, mà các thánh hiền hết sức ca ngợi.
c. Phân loại nhẫn
Tụng III.10.
III.10. Khi tu tập nhẫn mà bạn thệ nguyện giữ cho tới khi thành Phật, nếu bạn thấy 3 phương diện -- tôi, kẻ nhẫn, sự nhẫn, nhẫn với ai -- thì nó là nhẫn thế tục.
Đức Phật giảng kẻ tu tập nhẫn không chấp thủ 3 phương diện là nhẫn toàn hảo, siêu việt thế tục.
Nếu trong tu tập nhẫn và hồi hướng nó tới sự thành tựu trạng thái phật toàn giác, mà chủ thể, đối tượng, và hành động đều được xem là có hiện hữu tự tính, nhẫn được nói đến là một toàn hảo thế tục. Tuy nhiên nếu nhẫn được tu tập trong phong cách chẳng có ba quan tâm này, hoặc ba phương diện này, nó thiết lập một toàn hảo siêu việt về nhẫn, như Đức Phật đã nói.
2. Miêu tả về các tính đức khác hiển thị trên trí địa này
Tụng III.11.
III.11. Các Bồ tát ở trí địa nay có lục thông và tam ma đề (Samadhi; chính định; tam muội), đoạn trừ hoàn toàn tham luyến và phẫn nộ.
Các Bồ tát có năng lực làm tiết giảm các tham luyến của các kẻ thường tục.
Khi ở trên trí địa thứ ba, các Bồ tát thành tựu bốn Samadhi (tam ma đề) của cõi sắc, bốn samapatti cõi vô sắc (formless absorption; tam ma bát đề), bốn tính đức vô lượng (từ, bi, hỉ, bình đẳng), và ngũ thông. Đồng thời họ đoạn trừ hoàn toàn các hạt giống của tham, sân, si, mà chúng là các che lấp bị xoá bỏ một cách chính xác trên trí địa này. Đó là sự chấp thuận không sợ hãi về bản chất thâm mật của các sự vật mà họ thành đạt các tính đức do đoạn trừ nói trên và thật chứng. Các Bồ tát như vậy trong các thời đều có khả năng vượt qua các tham luyến được trải nghiệm trong cõi dục giới. Đa số họ đều được sinh ra là “Indra” (Vua của chư thiên; đệ tử của Phật; và là Hộ Pháp) và họ có khả năng tạo ra các thần dân cõi trời của họ từ bùn lầy của tham luyến / dục vọng (mud of desire).
C. Kết luận: các tính đức của trí địa này
1. Kết luận chung cho ba toàn hảo của trí địa thứ nhất, thứ nhì và thứ ba
Tụng III.12.
III.12. Đức Phật khen ngợi các kẻ thường tục đã thực hành ba pháp bố thí, giới hạnh, và nhẫn.
Chúng tạo thành tích tập phúc đức, nguyên nhân của Sắc Thân của Phật (gồm Báo Thân và Ứng Hoá Thân).
Khi Nguyệt Xứng nói “Bố thí và v.v…., ngài có ý nói gồm cả giới hạnh và nhẫn. Đức Phật khen ngợi ba toàn hảo này thì chủ yếu làm lợi ích cho các hành giả là các kẻ thường tục. Ba toàn hảo này là trong tích tập phúc đức, và khi kết quả được thành tựu, biểu hiện của chúng là chính sắc thân của Đức Phật, bởi vì chúng là nguồn gốc của sắc thân của vị toàn giác.
2. Kết luận chuyên biệt cho trí địa thứ ba
Tụng III.13.
III.13. Phát quang này, an trú trong mặt trời, các người con của đấng Tối Thắng, đoạn trừ tất cả bóng tối trong họ, và nguyện đoạn trừ bóng tối cho các hữu tình.
Nơi trí địa này, họ nhận biết tinh tế các hiện tượng / biến cố, nhưng không phẫn nộ với các sai lầm của các kẻ khác.
Khi các Bồ tát mới tới trí địa thứ ba, phát quang như mặt trời, bóng tối tinh thần mà từ trước tới nay che lấp sự thành tựu của họ bị hoàn toàn xoá tan. Khai hiển sự huy hoàng của họ, vào thời điểm đó họ nguyện vượt thắng bóng tối đang ngăn cản các hữu tình đạt đến trí địa này. Ở đây, mặc dù các Bồ tát -- những vị có năng lực huỷ diệt các bóng tối nhá nhem của các hành vi sai trái -- đều nhận biết tinh tế và trực nhập như các tia sáng mặt trời, họ đều không bị phiền nhiễu bởi các sai lầm thiếu sót của các kẻ khác. Bởi vì các tâm của họ đều đã thuần nhã do đại bi và họ an trú trong nhẫn.
Ở đây chấm dứt trí địa thứ ba hoặc cấp bậc thứ ba trong sự đào luyện tâm bồ đề tuyệt đối.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Phụ bản
Long Thọ. Ratnavali. Vòng hoa quý
445. Trí địa thứ ba được gọi là Phát Quang
Bởi vì ánh sáng trí tuệ làm tịch tĩnh sinh khởi.
Các thiền định và lục thông được lưu xuất,
Và tham và sân được bị đoạn trừ hoàn toàn.
*
446. Xuyên qua sự thành thục của các tính đức thiện hảo này
Họ thực hiện các hành động nhẫn một cách siêu tuyệt
Và trở thành một vị vua hiền trí của chư thiên.
Họ đoạn trừ hoàn toàn tham luyến.
*
Nagarjuna. Ratnavali. Precious Garland. Analyzed, translated, and edited by Jeffrey Hopkins, 2007.
445. The third ground is called the Luminous
Because of the pacifying light of wisdom arises.
The concentrations and clairvoyances are generated,
And desise and hatred are completely extinguished.
446. Through the maturation of those [good qualities]
They practice supremely the deeds of patience
And become a great wise monarch of the gods.
They put an end to desire.
-------------------------
Chú thích
Trong Phật giáo, Skt. ksanti thường được dịch sang Anh ngữ là patience (nhẫn) ; tolerance (khoan dung); và sang tiếng Việt là Nhẫn; Nhẫn nhục; An nhẫn; Khoan dung.
Trong bản dịch Nhập Trung Đạo, tôi dịch Skt. ksanti / patience/ tolerance sang tiếng Việt là nhẫn / khoan dung.
Để trình bày ý nghĩa của NHẪN / KHOAN DUNG, tôi xin ghi ý nghĩa “tolerance” theo Giáo Sư Robert A.F. Thurman giới thiệu, trong phần Thuật ngữ (Technical terms) trong The Holy Teaching of Vimalakirti. A Mahayana Scripture. Translated by Robert A.F. Thurman, và sau đó là ý nghĩa nhẫn trong các tự điển.
-----------
Nhẫn / khoan dung (ksanti).
Nhẫn / khoan dung là một trong sáu toàn hảo, các tiêu chuẩn trong các hành hoạt của các Bồ tát: bố thí, giới hạnh, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Ở đây chúng ta quan tâm đến “vô sinh pháp nhẫn có tính trực quan” (anupattikadharmaksanti; intuitive tolerance of birthlessness) hoặc bất khả đắc pháp nhẫn / bất khả thủ pháp nhẫn (anupalabdhidharmaksanti). Khi dịch ksanti (nhẫn) trong vai trò “trí tuệ thế tục” (“knowledge”) hoặc “xác tín”/ “tà kiến” (“conviction”) thì không truyền đạt được giáo nghĩa sử dụng và bản ý trong Sanskrit (Sanskrit usage and intended sense) :
[Giải thích: Giáo sư Thurman có nói tới 62 convictions (tà kiến) -- nghĩa là từ ngữ conviction ở trong bản dịch Anh ngữ Kinh này có nghĩa là tà kiến. Patrul Rinpoche trong The Words of My Perfect Teacher có nói đến 360 false views (vọng kiến) và 62 wrong views (tà kiến) có thể thu gọn thành 2 chủ trương Có và Không, tức là Thường hằng và Đoạn diệt (etenalism and nihilism). Do thế câu trên có nghĩa, nếu khi dịch mà ý nghĩa ksanti -- trong vô sinh pháp nhẫn và bất khả đắc pháp nhẫn mà bị đọc sai lạc, vì bị trí tuệ phân biệt và tà kiến, do đó xem vô sinh pháp và bất khả đắc pháp là ở một trong hai nhóm có, không -- là điều chúng ta quan tâm. ĐHP]
Trong sự đối diện với tính vô sinh hoặc tính bất khả đắc / thủ ( nghĩa là pháp tính tối hậu (ultimate reality) [reality: dharmata; pháp tính // ĐHP], trí tuệ thế tục (ordinary knowledge) và các xác tín/ tà kiến (convictions) thì bị mất phương hướng một cách hoàn toàn [= ngơ ngác]; đây là bởi vì tâm đánh mất khả năng đối tượng hoá về bất kì sự vật và chẳng có cái chi để nắm giữ [tâm luôn luôn nhận thức về một cái gì. ĐHP] và tiến trình của nó đi đến tùy thuận / tuỳ nghi có thể được miêu tả là một sự hủy bỏ có tính ý thức xuyên qua các phủ định tuyệt đối về bất kì ý niệm sai trái về tính xác quyết về bất kì sự vật gì. [vì vô sinh, bất khả đắc, nên nếu xác quyết về bất kì sự vật gì cũng chỉ là ý niệm sai trái. ĐHP].
Xuyên qua sự khoan dung / sự dung chứa rộng rãi này, tâm vươn tới một cấp bậc ở đó tâm có thể cưu mang cái sự nó chẳng biết nó ở đâu, và nó sẽ làm gì tiếp (it can bear its lack of bearings), như nó đang ở, có thể trụ lâu dài với loại này của chân không diệu hữu (this kind of extreme openness), sự chẳng có một bất kì tà kiến, v.v… Có ba mức độ về khoan dung / nhẫn này -- âm hưởng nhẫn (ghosanuga; verbal), thuận pháp nhẫn (anulomiki; conforming) và vô sinh pháp nhẫn (true tolerance of birthlessness) .
[Giải thích: 1. Khi tâm thấy các pháp đều vô sinh, các pháp đều bất khả đắc, tâm không biết đang ở đâu, sẽ làm gì tiếp -- và ngơ ngác -- nếu đọc câu này thấy khó hiểu -- chúng ta hãy nhớ Kinh Lăng Già -- Thế gian lìa sinh diệt, Như hoa đốm trên không, Trí chẳng trụ hữu vô, Mà khởi tâm đại bi --- Niết bàn chẳng thể lập, Chẳng có Niết Bàn Phật, Chẳng có Phật Niết bàn, Lìa năng giác sở giác, Hoặc có hoặc không có, Cả hai thảy đều lìa. Pháp thiền quán tịch tịnh, Vốn lìa sự sinh khởi, Chẳng đời này, đời sau, Gọi là chẳng thủ xả. ĐHP]
[bearings : 1. If you get or find your bearings, you find out where you are or what you should do next. If you lose your bearings, you do not know where you are or what you should do next]
[Kinh Vô Lượng Thọ: Người vãng sinh đến Thế giới Cực Lạc, nghe âm thanh của rừng cây thất bảo mà ngộ được ba điều nhẫn: Âm hưởng nhẫn / Âm thanh nhẫn, Nhu thuận nhẫn, Vô sinh pháp nhẫn]
--------------
Tolerance (ksanti).
This is itemized under the “six transcendances” [six transcendences (paramita).These are main categories of bodhisattva’s activities: giving (dana), morality (sila), tolerance (ksanti) effot (virya), meditation (dhyana), and wisdom (prajna)]
Here we are concerned with the “intuitive tolerance of the birthlessness (or incomprehensibility) of all things“ (anutpattikadharmaksanti or anupalabdhidharmaksanti). To translate ksanti as "knowledge” or “conviction” defeats entirely the Skt. usage and its intended sense:
In the face of birthlessness or incomprehensibility (i.e. ultimate reality), ordinary knowledge and especially convictions are utterly lost; this is because the mind loses objectifiability of anything and has nothing to grasp, and its process of coming to term may be described only as a conscious cancellation through absolute negations of any false sense of certainty about anything.
Through this tolerance, the mind reaches a stage where it can bear its lack of bearings, as it were, can endure this kind of extreme openness, this lack of any conviction, etc. There are three degrees of this tolerance -- verbal (ghosanuga), conforming (anulomiki), and complete [true tolerance of birthlessness]. See Lamotte , Appendice, Note III.
--------------------
Chú thích
Skt. ksanti:
1. nhẫn; patience; tolerance 2. khoan dung; tolerance
Tự điển Hán Việt Trần Văn Chánh 1999
NHẪN:
1. Nhịn, nén, chịu đựng
2. Tàn nhẫn, nỡ lòng, đang tâm. Nhẫn tâm hại lý: Nỡ lòng hại lẽ trời.
KHOAN:
rộng rãi, thênh thang;
tỉ dụ: khoan hồng, khoan dung, khoan thứ, tha thứ điều lỗi đã qua
Khoan dung: khoan dung; rộng lòng tha thứ
DUNG / DONG:
1. bao hàm, dung chứa, chứa đựng
2. tha thứ, bao dung, khoan dung -- tỉ dụ: bất khả khoan dung; hưu hưu hữu dung lồng lộng có lượng bao dung/ bao dong; dung dị: dễ, dễ dàng
dung nhẫn: khoan nhượng, nhịn, khoan dung, nhẫn nại
3. để tiếp thu, cho phép
DUNG NHẪN
Khoan nhượng, nhịn, khoan dung nhẫn nại
---------------------------------------------
Tự điển Hán Việt Thiều Chửu 1942
NHẪN:
1. Nhịn, như gặp việc khó khăn cũng cố làm cho được gọi là kiên nhẫn; khoan dong cho người không vội trách gọi là dong nhẫn -v.v…
2. Nỡ, làm sự bất nhân mà tự làm yên lòng, gọi là nhẫn. Như “nhẫn tâm hại lý”, nỡ lòng làm hại lẽ trời
DONG:
1. bao dong, chịu đựng; như hưu hưu hữu dong: lồng lộng có lượng bao dong nghĩa là khí-cục rộng lớn bao dong được cả mọi người.
2. nghi dong: dáng dấp
3. Lời nói giúp lời như vô dong, không cần
4. nên như “dong hoặc hữu chi”, nên hoặc có đấy
DUNG
Hoà đều, dong thông, lưu thông hai vật khác nhau mà hoà tan với nhau làm một đều gọi là dung, như thủy nhũ giao dung, nước với sữa hoà lẫn với nhau. Hai bên cùng thấu tỏ thông nhau gọi là thông dung. Người không câu nệ chấp trước gọi là viên dung. Cũng đọc là chữ DONG.
KHOAN:
1. nhà rộng, phàm vật gì đựng chứa còn chỗ rộng thừa thãi đều gọi là khoan;
2. khoan thai, rộng rãi;
3. bề rộng, chiều rộng
4. Tha, như khoan kì kí vãng, tha cho điều lỗi lầm đã làm rồi.
----------------------------------------------------------------------------
Đại Nam Quấc Âm Tự Vị . Huình - Tịnh Palus Của. 1895
NHẪN. c. Nhịn, chịu, nỡ, tiếng trợ từ
Nhẫn nhịn (id) , Nhẫn nhục (id) , Nhẫn nại (id) , Ẩn nhẫn (id) (như trên)
Nhẫn tâm, Nỡ lòng, đành lòng làm việc gì.
Nhẫn tâm hại lý. Nỡ lòng làm dữ, không theo lẽ phải.
Thị khả nhẫn thục bất khả nhẫn. Một đều nỡ được, đều gì chẳng nỡ, nghĩa là một đều làm làm được thì đều khác cũng làm được.
KHOAN c. Rộng, tốt, hưởn, dung tha thứ.
Khoan nhơn. Có lòng rộng rãi, nhơn đức, hay thương xót, hay xuống phước, hay làm ơn
Khoan hậu id (như trên)
Khoan dong id (như trên)
khoan hoà id (như trên)
Khoan dủ. Rộng rãi, độ lượng lớn
Khoan hồng. id (như trên)
Khoan thay. Bộ rộng rãi, nhơn đức lớn.
Khoan thai. Bộ thong dong, thơ thới
Khoan giản. Thong thả, hưởn đãi.
Khoan tay. Nới tay, chậm tay.
Khoan đã. Tiếng biểu phải ngừng lại, phải đình lại, phải để vậy, chớ ra tay.
Khoan khoan. Tiếng biểu phải thủng thỉnh, phải chậm chậm.
Bắt khoan bắt nhặt. Hay lỗi phép, hay bắt phép.
Khoan tắc đắc chúng. Ở rộng rãi, hay dung thứ thì được bụng nhiều người.
Thối nhứt bộ tự nhiên khoan. Lui một bước, tự nhiên thong dong, không phải ăn năn sự chi. Hay nhịn nhục thì khỏi ăn năn về sau.
DONG: c. Thứ tha, đựng; bộ tịch, hình tướng (coi chữ dung)
Tư dong: tư chất; vẻ lịch sự
Thứ dong: Tha thứ
Dong thứ: id
Thong dong: Thong thả, không phải câu thúc
Dong cho: Tha thứ cho
Dong tình: Vị tình, nghĩ tình, đem lòng xét nghĩ cho
Bao dong: Lấy lòng rộng rãi mà thứ tha, khoả lấp.
Khoan dong: rộng rãi, hay thương, hay tha thứ, độ lượng lớn.
Rộng dong: id
Dong túng: Thả luống, không kềm thúc
Dong dị: rất dễ
------------------------------------------
Tịch Thiên -- CON ĐƯỜNG BỒ TÁT
Chương 6-- AN NHẪN TOÀN HẢO
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc (dịch theo bản Phạn- Anh)
Bản Anh: Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life.
Translated from the Sanskrit and Tibetan by Vesna A. Wallace and B. Alan Wallace.
Snow Lion, 1997
*
1. Giận dữ phá hủy tất cả các sự tôn quý chư Thiện Thệ, bố thí, và thiện hạnh đã tích tập trên ngàn kiếp.
2. Không một nết xấu vô đạo đức nào (vices) xấu bằng thù ghét, và không có một tu tập tâm linh nào tốt bằng an nhẫn. Thế nên, bạn nên dốc lòng đào luyện an nhẫn (patience) theo nhiều phương cách.
3. Khi cái gai của thù ghét cư trú trong tim, tâm không tìm thấy tịch tĩnh, cũng không thụ hưởng lạc thú và hoan hỉ, cũng không tìm thấy giấc ngủ, hoặc can đảm và nghị lực trong thời kì đau thương / nguy hiểm kéo dài.
3. The mind does not find peace, nor does it enjoy pleasure and joy, nor does it find sleep or fortitude when the thorn of hatred dwells in the heart. [fortitude: (formal) courage and strength, especially during a long and painful or dangerous time].
Chú thích (chương 6 -An nhẫn toàn hảo)
1. An nhẫn, Nhẫn, Nhẫn nhục: Ksanti; patience
Dù bị người hủy nhục, bức hại, hoặc gặp những khổ đau do hoàn cảnh bên ngoài đem đến, thì thân tâm vẫn an tịnh và chịu đựng được hết. Là một trong 6 Ba la mật, 1 trong mười Ba la mật.
Theo Luận Du già sư địa quyển 57, nhẫn nhục bao gồm 3 hành tướng: Không tức giận, Không kết oán, Tâm không mang ý ác.
Phẩm An nhẫn ba la mật đa trong kinh Đại thừa lí thú lục ba la mật đa quyển 6 cũng cho rằng chỉ có sự an nhẫn thực hành pháp quán “hết thảy pháp đều không” mới được gọi là An nhẫn ba la mật, còn ngoài ra tất cả chỉ gọi là An nhẫn. (Phật Quang Đại Từ Điển. Thích Quảng Độ dịch)
2. Vô sinh pháp nhẫn: Anutpattika-dharma-ksanti
Cũng gọi: Vô sinh, Vô sinh nhẫn pháp, Tu tập vô sinh nhẫn.
Luận Đại trí độ quyển 50 (Đại 25, 417 hạ) nói: “Vô sinh pháp nhẫn nghĩa là đối với lí thực tướng các pháp không sinh diệt, tin nhận thông suốt, không ngần ngại, không lùi bước, đó gọi là Vô sinh nhẫn”.
Theo luận Du già sư địa quyển 74, Bồ tát ở địa vị Bất thoái chuyển nương vào 3 tính: Biến kế sở chấp, Y tha khởi, và Viên thành thực mà được 3 thứ Vô sinh nhẫn: Bản tính, Tự nhiên, và Phiền não khổ cấu.
1. Bản tính vô sinh nhẫn (cũng gọi Bản lai vô sinh nhẫn): Nghĩa là quán xét thể tính của Biến kế sở chấp (vọng chấp) đều không, nhận biết rõ bản tính Vô sinh.
2. Tự nhiên vô sinh nhẫn: Nghĩa là quán xét các pháp Y tha do nhân duyên sinh, biết rõ chẳng phải tự nhiên mà sinh.
3. Phiền não khổ cấu vô sinh nhẫn (cũng gọi Hoặc khổ vô sinh nhẫn): Nghĩa là pháp tính chân như của thực tính các pháp là an trụ vô vi và không tương ứng với tất cả tạp nhiễm, nhận biết rõ xưa nay vốn vắng lặng. Đó là nhận biết rõ lí của Tam vô tính, nên gọi là Vô sinh nhẫn. (Phật Quang Đại Từ Điển. Thích Quảng Độ dịch)
--------------------
Phụ Bản -- Vô sinh pháp nhẫn -- Cúng dường Pháp
PHẬT THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH
Hán Dịch: Đại Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Nguyên
XIII. Phẩm Cúng Dường Pháp
Lúc ấy có một vương tử tên Nguyệt Cái, một mình ở chỗ vắng suy nghĩ: “ Ta cung kính, cúng dường Dược Vương Như Lai, có cách cung kính, cúng dường nào thù thắng tối thượng hơn đây không?” Nhờ thần lưc của Phật, giữa hư không có vị trời nói với vương tử rằng:
- Nguyệt Cái nên biết! Trong các sự cúng dường, thì cúng dường pháp rất là thù thắng”.
Vương tử liền hỏi: “ Sao gọi là cúng dường pháp?”
Vị trời nói với Nguyệt Cái:
- Ông hãy đến hỏi Dược Vương Như Lai rằng: “ Bạch Thế Tôn! Sao gọi là cúng dường pháp?” Đức Phật ấy sẽ giảng giải khai thị cho ông.
Sau khi nghe vị trời nói, vương tử Nguyệt Cái liền đến hỏi Dược Vương Như Lai, cung kính, ân cần lạy sát chân ngài, đi nhiễu ba vòng rồi lui qua một bên thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con nghe nói trong tất cả sự cúng dường thì cúng dường pháp rất là tối thượng. Vậy tướng sự cúng dường pháp ấy như thế nào?
Dược Vương Như Lai nói với Vương tử:
- Nguyệt Cái nên biết! Cúng dường pháp nghĩa là đối với kinh điển do Phật nói ra thì tướng nó rất vi diệu sâu xa, thế gian rất khó tin, khó được độ, khó thấy, sâu kín, tinh túy, không nhiễm, liễu nghĩa, chẳng phải dùng phân biệt để biết, bởi vì đó là kho tàng của Bồ tát. Kinh tổng trì ấy được đóng dấu ấn của Phật, phân biệt khai thị bất thối pháp luân; sáu độ từ đây mà có; giữ gìn hoàn hảo những gì đáng giữ gìn, thực hành theo pháp Bồ đề phần; bảy giác chi đích thân dẫn đầu; giảng nói khai thị đại từ đại bi, cứu giúp đem sự an lạc đến các hữu tình; xa lìa tất cả kiến thú ma oán; phân biệt xiển dương lý duyên khởi sâu xa; biết rằng trong không có ngã, ngoài không có hữu tình; đối với hai bên và chặn giữa không có thọ mạng, không có người nuôi dưỡng; hoàn toàn không có chút tánh Bổ đặc già la; tương ưng với không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô khởi. Kinh pháp ấy đưa người đến diệu giác, chuyển bánh xe pháp; trời rồng, kiền đạt phược đều cung kính tôn trọng ca ngợi cúng dường, hướng dẫn chúng sanh cúng dường đại pháp; làm viên mãn đại pháp thí cho chúng sanh, tất cả Thánh Hiền đều thọ trì; khai mở tất cả diệu hạnh của Bồ tát. Kinh pháp ấy làm chỗ qui về pháp nghĩa chân thật. Sự tối thắng vô ngại từ kinh pháp này mà phát sanh, nói rõ các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, tịch tịnh; phát sanh bốn pháp Ôn Đà Nam (bốn pháp ấn), diệt trừ tất cả xan tham, phá giới, sân hận, biếng nhác, vọng niệm, ác huệ, sợ hãi, tất cả tà luận ngoại đạo, ác kiến, chấp trước. Kinh pháp ấy phát sanh thế lực tăng thượng pháp lành cho hữu tình chiến thắng tất cả quân ác ma, được chư Phật Thánh hiền khen ngợi. Kinh pháp ấy có thể trừ khổ lớn trong sanh tử, thị hiện niềm vui lớn Niết bàn, chư Phật mười phương ba đời đều nói. Với kinh ấy, ai thích nghe, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, thuộc lòng, tư duy quán sát nghĩa lý sâu xa, làm cho kinh ấy sáng rỡ, thi thiết an lập phân biệt khai thị sáng suốt, lại giảng rõ ràng cho người, dùng phương tiện thiện xảo mà giữ gìn chánh pháp, thì người đó gọi là cúng dường pháp.
Lại nữa, này Nguyệt Cái! Người cúng dường pháp nghĩa là với các pháp phải điều phục như pháp, với các pháp phải tu hành như pháp; tùy thuận theo duyên khởi; xa lìa các tà kiến; tu tập vô sanh bất khởi pháp nhẫn; ngộ nhập không có ngã và không có hữu tình; không chống đối với lý nhân duyên; không tranh cải, không sanh dị luận; tách rời ngã và ngã sở không bị lệ thuộc; căn cứ theo nghĩa mà không căn cứ nơi văn từ; y theo trí không y theo thức; y theo liễu nghĩa đã được nói trong khế kinh, tuyệt đối không y theo lời nói bất liễu nghĩa thuộc kinh điển thế tục rồi sanh chấp trước; y theo tánh mà không y theo sự thấy có sở đắc của Bổ đặc già la. Theo tánh tướng đó mà giác ngộ hiểu các pháp, nhập vào Vô tạng nhiếp, diệt A lại da, trừ khử vô minh cho đến lão tử; dứt trừ sầu bi khổ não; quán sát mười hai nhân duyên ấy không chỗ cùng tận hay chỗ phát sanh; nguyện các hữu tình lìa bỏ các kiến thú. Đó là cúng dường pháp tối thượng.
Bấy giờ, Phật dạy Thiên Đế:
- Được nghe Phật Dược Vương nói sự cúng dường pháp rất là tối thượng ấy, vương tử Nguyệt Cái đắc được Thuận pháp nhẫn và liền cởi áo báu với những đồ trang sức dâng cúng dường Dược Vương Như Lai và thưa rằng: “ Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật Bát Niết bàn, con nguyện giữ gìn chánh pháp, thực hành cúng dường pháp để giữ gìn chánh pháp. Cúi xin Như Lai dùng sức thần lực thương xót gia hộ con chiến thắng bọn ma khó chiến thắng mà giữ gìn chánh pháp tu hạnh Bồ tát”.
Biết tâm ý tăng thượng của Nguyệt Cái, Dược Vương Như Lai liền thọ ký:
- Sau khi Như Lai Niết bàn, ông sẽ giừ gìn thành lũy chánh pháp.
……..
Phật dạy Thiên Đế:
Nguyệt Cái hộ pháp thuở ấy đâu phải người nào mà chính là thân ta ấy.
Thiên Đế nên biết! Ta nói tất cả sự thiết bày cúng dường chư Phật, thì cúng dường pháp là tối tôn, tôi thắng, tối thượng, tối diệu, là vô thượng. Cho nên Thiên Đế muốn được cúng dường Phật thì hãy cúng dường Pháp, không cúng bằng tài vật.
- Tag :
- Đặng Hữu Phúc