Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Biện Chứng Bát NhãLong Thọ

06 Tháng Ba 201400:00(Xem: 8041)
Biện Chứng Bát Nhã và Long Thọ

BIỆN CHỨNG BÁT NHÃLONG THỌ


Vũ Thế Ngọc

Khi nghiên cứu về kinh Kim Cương năng đoạn bát nhã ba la mật (Vajracchedika-prajnaparamita) với so sánh cả năm bản Hán dịch từ La Thập đến Huyền Trang với tồn bản Sanskrit[1], tôi có viết một chương về "Biện chứng bát nhã", trong có đề cập đến Long Thọ. Sau đó lại hướng dẫn đại đức J.J Lai viết luận án so sánh về hai chú giải Trung Luận (Mulamadhyamakakarika) của Nguyệt Xứng (theo tồn bản Tây Tạng) và của Thanh Mục (qua bản Hán dịch của La Thập), tôi nghĩ mình phải viết thêm về Long Thọ. Vì vậy, tiểu luận nhỏ Biện chứng pháp bát nhãLong Thọ này thành hìnhdự định sẽ xuất bản cùng với Nghiên cứu về Trung Luận khi có cơ duyên. Phần sau đây là phần giới thiệu về biện chứng bát nhã, các phần sau về Long Thọ sẽ xin được giới thiệu lần lượt trên Suối nguồn.

Biện chứng bát nhã

Trong kinh Kim cương bát nhã có loại ngôn ngữ khác thường mà người mới học thấy rất khó hiểu: Như thế giải thoát cho vô số vô biên chúng sinh, nhưng thực ra không có chúng sinh nào được giải thoát (đoạn 3). Không thể lấy thân tướngnhận ra Như Lai. Vì tại sao? Như Lai nói thân tướng không phải là thân tướng (đoạn 5). Những vi trần ấy, Như Lai nói chẳng phải là vi trần, nên gọi là vi trần (đoạn 13). Như Lai nói thế giới cũng chẳng phải là thế giới, nên gọi là thế giới (đoạn 13). Như Lai nói ba mươi hai tướng không phải là ba mươi hai tướng, nên gọi là ba mươi hai tướng (đoạn 13). Như lai nói bát nhã ba la mật tức không phải là bát nhã ba la mật, nên gọi là bát nhã ba la mật (đoạn 17). Này Tu Bồ Đề! Nói tất cả pháp, tức không phải tất cả pháp, nên gọi là tất cả pháp (đoạn 17). Vì Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm, nên gọi là trang nghiêm (đoạn 17) v.v.

Vì phương thức diễn đạt này lặp đi lặp lại, chúng ta có thể gọi là "lý luận ba câu" (theo bản dịch của La Thập) theo mô thức như sau:

(1) Sở ngôn (2) Tức phi (3) Thị danh

Thị phúc đức, tức phi phúc đức tính, thị cố Như Lai thuyết phúc đức đa (đoạn 8)

Trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm (đoạn 10)

Phật thuyết bát nhã ba la mật, tức phi bát nhã ba la mật, thị danh bát nhã ba la mật (đoạn 13)

Chư vi trần, Như Lai thuyết phi vi trần, thị danh vi trần (đoạn 13)

Như Lai thuyết tam thập nhị tướng, tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng (đoạn 13)

Thị thật tướng giả, tức phi thị tướng, thị cố Như Lai thuyết danh thật tướng (đoạn 14)

Như Lai thuyết đệ nhất ba la mật, tức phi đệ nhất ba la mật, thị danh đệ nhất ba la mật (đoạn 14)

Nhẫn nhục ba la mật, Như Lai thuyết phi nhẫn nhục ba la mật, thị danh nhẫn nhục ba la mật (đoạn 14)

Sở ngôn nhất thiết pháp giả, tức phi nhất thiết pháp, thị cố danh Nhất thiết pháp (đoạn 17)

Như Lai thuyết nhân thân trường đại, tắc vi phi đại thân, thị danh đại thân (đ 17)

Như Lai thuyết trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm (đoạn 17)

Như Lai thuyết chư tướng cụ túc, tức phi cụ túc, thị danh chư tướng cụ túc (đoạn 20)

Chúng sinh giả, Như Lai thuyết phi chúng sinh, thị danh chúng sinh (đoạn 21)

Sở ngôn thiện pháp giả, Như Lai thuyết tức phi thiện pháp, thị danh thiện pháp (đoạn 23)

Phàm phu giả, Như Lai thuyết tức phi phàm phu, thị danh phàm phu (đoạn 25)

Phật thuyết vi trần chúng, tức phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng (đoạn 30)

Như Lai thuyết nhất hiệp tướng, tức phi nhất hiệp tướng, thị danh nhất hiệp tuớng (đoạn 30)

Sở ngôn pháp tướng giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng giả, thị danh pháp tướng (đoạn 31)

Hoặc các câu cú chỉ có 2/3 mô thức trên:

Sở thuyết thân tướng, tức phi thân tướng (đoạn 5)

Sở vị Phật pháp giả, tức phi Phật pháp (đoạn 8)

Phật thuyết phi thân, thị danh đại thân (đoạn 10)

Như Lai thuyết nhất thiết chư tướng, tức thị phi tướng (đoạn 14)

Hựu thuyết nhất thiết chúng sanh, tức phi chúng sanh (đoạn 14)

Stcherbatsky của trường phái Phật học Leningrad có viết bộ Buddhist logic[2]danh tiếng, nhưng rất tiếc đã không nói gì nhiều về mô thức luận lý này, ngoài việc cung cấp cơ sở thảo luận cho lý luận phủ nhận ông gọi là negative syllogism. Danh từ "biện chứng" (dialectic) trong tựa đề Biện chứng bát nhã của tiêu đề tôi đặt ở đây đơn giản chỉ nói đến lối diễn tả ngôn ngữ phủ định của kinh Kim cương bát nhã như một cách diễn tả phủ định tiền đề (thesis) để tạo ra một nhận thức mới (mặc dù một "synthesis" không nhất thiết phải bao trùm cả chính đề và phản đề theo từ nghĩa syn) theo định nghĩa cơ bản tam đoạn luận cổ điển.

Trong kinh Kim cương bát nhã, đức Phật phải dùng loại lý luận phủ định chỉ vì giáo lý mà ngài dạy ở đây là tính không của ngã và vạn pháp. Đây là loại giáo pháp siêu thoát cho hàng bồ tát nên rất cao siêu vi diệu mà các bậc cổ đức thường gọi là không thể nghĩ bàn, không thể giải thích (bất khả tư nghị, bất khả ngôn thuyết). Người đọc kinh điển bát nhã cần chú ý theo những lời cảnh giác của Long Thọ "đức Phật biết rằng giáo pháp này rất cao sâu vi diệu, người thiếu căn cơ không thể hiểu đuợc, nên đã từng không muốn thuyết giáo"[3], cho thấy giáo lý này khó có thể dùng lý luận hay ngôn thuyết để giải thích một cách dễ dàng. Nên đức Phật thường phải dùng cách lý luận phủ định để có thể tạm chuyên chở ý nghĩa cao siêu này cho quần chúng. Đây cũng không phải là luận lý riêng của Phật giáo, truyền thống triết lý Ấn Độ thường có một phương pháp dùng phủ định để giải thích các ý tưởng siêu hình gọi là neti neti (không phải cái này mà cũng không phải cái kia).

Lý luận ba câu : Giải thích theo Long Thọ 

Thí dụ như câu "Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm, nên gọi là trang nghiêm", thì phần lớn các luận sư Trung Hoa thường giải thích theo luận cương của Long Thọ. Có nghĩa là ý thức được chân lý thực tướng của tuyệt đối (chân đế hay đệ nhất nghĩa đế) khác biệt với giá trị tổng quát giới hạn của thế giới tương đối (tục đế), nhưng vẫn phải nhờ tục đế để biểu hiện chân đế[4]. Có nghĩa rằng (1) cái mà thế giới tương đối gọi là trang nghiêm [Sở ngôn] → (2) theo nghĩa tuyệt đối không có gì là trang nghiêm cả vì trong chân lý vạn pháp vốn không tịch, thực tế trang nghiêm cõi Phật cũng chỉ là hư huyễn [Tức phi] → (3) Nhưng vì thuận theo chúng sanh, nói theo ngôn ngữ của thế giới tương đối nên tạm chấp nhận cũng gọi là trang nghiêm [Thị danh]. Đây là lý luậnLong Thọ gọi là dùng tục đế để giải thích chân đế (chư Phật y nhị đế, vị chúng sanh thuyết pháp). Các luận sư thường gọi đơn giản là "lý luận ba câu" là theo ý nghĩa này.

Tuy nhiên giải thích "Lý luận ba câu" (cái người ta gọi là A, Phật gọi là -A, và do đó Phật gọi là A) bằng lập trường "an lập nhị đế để thuyết minh chân lý" hay "chẳng hoại giả danh mà trình bày thật tướng" của Long Thọ cũng chưa nói lên được cái siêu việt của mệnh đề thứ ba trong kinh Kim cang bát nhã. Vì "cái A" của mệnh đề thứ ba không hoàn toàn còn là "cái A" của mệnh đề thứ nhất. Thiền sư Thanh Nguyên Duy Tín có thể giải thích giúp ta một phần: "Khi chưa tu tôi thấy núi là núi, sông là sông. Khi bắt đầu tu thì tôi thấy núi không còn là núi, sông không còn là sông. Nay ngộ ra thì núi lại là núi, sông là sông"[5].

Cũng cách đây 30 năm (1981) chính tác giả đã giải thích "Ở giai đoạn thứ nhất là thế giới đối đãi nhị nguyên. Lẽ dĩ nhiênthế giới này màu xanh là màu xanh, đỏ là màu đỏ, núi là núi, sông là sông … Ở giai đoạn thứ hai của thế giới bất phân biệt của hành giả trong quá trình tu học và thí nghiệm. Ở thế giới này tất cả chỉ là tương đối (A có vì B có, A không có vì B không có v.v.) và tạm thời (ví như nhà hóa học nhìn đâu cũng chỉ thấy các cấu trúc nguyên tử…). Đó là giai đoạn mà người hành giả vừa có vẻ rơi vào cảnh giới vô phân biệt, rồi có vẻ như ở trạng thái ngờ vực tất cả. Đó là lúc "dường như có dường như không" (Tuyệt quán luận)[6]… lúc này núi không còn là núi, sông không còn là sông (…) Người ngộ thì vượt qua giai đoạn này để trở lại trạng thái "núi là núi, sông là sông" nhưng bây giờ từng vật, từng việc hiện hữu một cách tự tại. Hành giả bây giờ đồng hóa với lý vô ngã, vô thường trong từng cử động, trong từng ý niệm… trong một trạng thái được diễn tả như tận cùng tự do, tự tại, thuần nhiên, tố phác"[7].

Bây giờ, ba mươi năm sau, tôi cũng không muốn viết gì thêm, chỉ chú thích ở đây là giai đoạn thứ nhất và thứ ba của công án Thanh Nguyên Duy Tín rất giống với mệnh đề thứ nhất và mệnh đề thứ ba của "lý luận ba câu", nhưng giai đoạn thứ hai của công án thì khác với mệnh đề thứ hai của "lý luận ba câu".

công án thì giai đoạn thứ hai như tôi đã viết ở trên là "dường như có dường như không" đúng là lời của Bồ Đề Đạt Ma trong Tuyệt quán luận, còn mệnh đề thứ hai của "lý luận ba câu" thì khác hơn.

Mệnh đề thứ hai "A là -A" của "lý luận ba câu" thì huyền diệu hơn. Trước hết, trên cơ bản lý luận toán học, mệnh đề thứ hai "A là -A" là một chứng định (verify) cho mệnh đề thứ nhất "A là A".

Theo lý luận này thì A không thể là A[8] nếu không có A là -A[9]. Thí dụ từ "trắng" thì "trắng" không thể diễn đạt cho cảm nghiệm về tất cả các hiện tượng và hiện vật trắng. Vì các hiện tượng và hiện vật trắng này vừa quá nhiều mà từ "trắng" cũng không thể diễn đạt được "sự trắng" (whiteness) của chúng. Nghĩa là "trắng" vừa không thể xác định cho số lượng trắng mà cũng không thể xác định cho cả phẩm lượng trắng.[10] Nhưng khi nói "không trắng" thì bây giờ tất cả những sự trắng đều biểu lộ. Cho nên tại sao tôi nói "A không thể là A nếu không có A là -A". Nói như Stcherbatsky trong Buddhist logic "The white is cognized through the non-white, and the non-white through the white"[11] hoặc "Without negatition they express nothing, they can express something only dialecticaly"[12]. Đó là về mặt lý luận toán học.

Nhìn sự vật dưới ánh sáng duyên khởi thì A không phải là A vì A chỉ là do các yếu tố -A mà hiện hữu (Hãy nhớ bài học duyên khởi căn bản chúng ta vừa học ở trên các pháp hiện hữu vì tựa vào nhau mà có "cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh"). Cho nên chúng ta mới nói A không phải là A, không phải để phủ nhận A mà làm cho A hiển lộ. Hiển lộ dưới một ánh sáng mới, không còn là vọng tưởng về A, mà là nhìn ra chân tướng của A. Tức là A trong mệnh đề thứ ba không chỉ là A của cái A trong mệnh đề thứ nhất mà là một cái A mới, A mới không loại trừ cái A cũ, mà cũng là xác định vị trígiới hạn cái A.

Bây giờ, chúng ta đọc lại đoạn 17 với câu "Tu Bồ Đề! Sở ngôn nhất thiết pháp giả tức phinhất thiết pháp giả, thị cố danh nhất thiết pháp" (Tu Bồ Đề! cái nói là "nhất thiết pháp" tức không "nhất thiết pháp" cho nên gọi là "nhất thiết pháp"). Ta sẽ thấy "cái gọi là A tức là các pháp" (thí dụ như cầu vồng) dưới ánh sáng của tuệ trí bát nhã thì chúng đều không có thực (-A) vì chúng không có tự ngã mà đều do các nhân duyên khác hợp lại mà thành (cầu vồng do ánh sáng chiếu qua màn hơi nước mà thành), chúng cũng không cố định lâu bền vì các nhân duyên đó luôn luôn thay đổi, mà bất cứ một nhân duyên nào biến chuyển thì chúng không còn tồn tại (hơi nước đang tan và sẽ tan rất nhanh và ánh sáng buổi chiều đang xuống và cũng xuống rất nhanh, và một khi một trong hai yếu tố chính đó biến động thì cầu vồng không còn tồn tại). Biết A là -A nhưng chúng ta không phủ nhận A (cho nên gọi là A) nhưng bây giờ cái thấy của chúng ta bao trùm toàn thực tướng của các pháp: xác định A nhờ có -A, nên thấy được toàn diện A (thấy cả A, những cái A, và những cái -A). Có nghĩa là chúng ta vẫn nhìn thấy cầu vồng, không phủ nhận không có cầu vồng, nhưng hiểu được toàn diện về cầu vồng, từ lý do của nó hiện hữu đến việc hiểu nó sẽ biến mất. Điều lý thú ở đây là không vì biết sự hiểu biết về cầu vồng mà chúng ta bớt thích thú cầu vồng. Giống như biết là vô ngã, biết sự thật ngắn ngủi vô thường của cái ngã thì không phải ta sẽ đau khổsợ hãi cái chết, hay tự tung tự tác cuống cuồng hưởng lạc làm bậy vô lối vì biết ta rồi cũng phải về với vô thường, hay rủ nhau đi tự tử (cái đoạn kiến hư vô đạo lý vô ngã lên án); mà trái lại, càng trân trọng sự sống của chính ta trong từng giây phút và tôn trọng sự sống mọi loài và cả thế giới thiên nhiên ngoài ta. Và vì vô ngã nên dù cho chúng ta đang đối diện với bất cứ nghịch cảnh nào, thì chúng ta cũng không còn quá lo âu sợ hãi hay hận thù như lúc trước.

 

VTN

 



[1]. Vũ Thế Ngọc, Trí tuệ giải thoát: Nghiên cứu kinh kim cuơng bát nhã, Nxb Thời Đại, Việt Nam 2012

[2]. Buddhist logic, Biliotheca Buddhica series volume xxvi [1930], New York: Dover 1962

[3]. "Thếtôn tri thịpháp, thậm thâm vi diệu tướng, phi đốn căn sởcập, thịcốbất dục thuyết" Trung Lun, XXIV-12.

[4]. "Nhược bất y tục đế, bất đắc đệ nhất nghĩa; bất đắc đệ nhất nghĩa, tắc bất đắc niết bàn" Trung Luận, XXIV-10.

[5]. Lão tăng tam thập niên tiền, vịtu thiền thời, kiến sơn thịsơn, kiến thủy thịthủy; cập chítu lai thịkiến thiện tri thức hữu cánhân xứkiến sơn bất thịsơn, kiến thủy bất thịthủy. Nhi kim đắc cáthểbiệt xứ, y nhiên, kiến sơn chi thịsơn, kiến thủy chi thịthủy. VũThếNgọc, Vômôn quan, [1983], Nxb. Tổng Hợp, Việt Nam tái bản 2006, tr. 63.

[6]. VũThếNgọc, Bồ Đề Đạt Ma Tuyt Quán Lun, [1983], Nxb Văn Nghệ, Việt Nam tái bản 2006.

[7]. VũthếNgọc, VôMôn Quan, Sđd, tr. 65-66.

[8]. Trong tác phẩm The Buddhist teaching of totality (Penn State University Press 1971) Garma Chang cố gắng thử chứng minh định đề A=A nhưng thất bại, và tự giải thích là luật đồng nhất không thể chứng minh được trong một nội hàm mà dùng chính nó để làm tiêu chuẩn chứng minh (Since the law of identity cannot be verified within a system that uses its own contents as a criterion for verify, to prove or disprove the Law of Identity) tr. 104

[9]. Ở đây không thể không nhớ lại lời dạy của Long Thọ trong Trung luận “Dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành, nhược vô không nghĩa giả, nhất thiết pháp bất thành” (Bởi vì có nghĩa không, nên các pháp hình thành. Nếu khôngnghĩa không, thì mọi pháp chẳng thành)

[10]. Chang (Sđd, tr. 106) dùng thí dụ đơn giản và phi toán học nhưng dễ hiểu: “USA is USA” không thể đúng, nếu USA trước là USA 1880 và USA sau là USA 1968.

[11]. Stcherbatsky, Buddhist logic, Sđd, tr. 460. Đây chính là giá trị lý luận biện chứng Hegel mà Stcherbatsky gọi là"Negativity is the soul of the universe" (Tính phủ định làlinh hồn của vũtrụ)

[12]. Ibid, tr. 471

(Suối Nguồn-Trung Tâm Dịch Thuật Hán Nôm Huệ Quang)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8197)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8290)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
(Xem: 9155)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 8038)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16247)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15772)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 7989)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 7992)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8713)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7883)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7482)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9302)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8557)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8604)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11876)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7494)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8268)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11711)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7396)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 8990)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 8407)
Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật.
(Xem: 10023)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9656)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9602)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10547)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10140)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8221)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20245)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8075)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8559)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9410)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9317)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7734)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8355)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8201)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 9023)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8762)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8619)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10180)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8126)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8844)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 9006)
Năm pháp, cùng tự tính, Tám thức, hai vô ngã. Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa.
(Xem: 8449)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7606)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 7515)
Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn...
(Xem: 9517)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9878)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8549)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12285)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9623)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7556)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8863)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16882)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 9027)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13246)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19787)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8656)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9223)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8298)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
(Xem: 10193)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant