Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người Phật Tử Tu Điều Gì?

19 Tháng Hai 201518:20(Xem: 8304)
Người Phật Tử Tu Điều Gì?

Người Phật Tử Tu Điều Gì?

Thích Nguyên Hương


Người Phật Tử Tu Điều GìĐể giải quyết câu hỏi này, chúng ta cần trả lời câu hỏi tại sao chúng ta trở thành Phật tử?
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc? Việc giữ gới có khó không? Làm sao để giữ giới tốt mà không cảm thấy đó là những điều bắt buộc quá khó hay không thiết thực? Để giải quyết những vấn đề này, chúng ta phải trở về với những điểm thiết thực cần thảo luận để làm rõ vấn đề. Đó là mục đích tu Phật và động cơ tu hành.

Với vấn đề mục đích tu hành, chúng ta phải biết vì sao chúng ta muốn tu tập. Có nhiều động cơ khác nhau dẫn người ta đến đạo phật, mỗi người có một hoàn cảnh, một duyên nghiệp khác nhau khiến chúng ta tìm đến đạo phật. Đạo là gì? Là con đường hay cách sống để có được một đời sống tốt đẹp, an toànhạnh phúc hơn. Giác ngộ chính là thấy ra bản chất của cuộc sống vốn tiềm ẩn một cái gì đó không ổn định và không đem đến sự thỏa mãn tuyệt đối. Sự không thỏa mãn này tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, từ thô tới tế. Ở những nước kém phát triển, điều này dễ nhận thấy, nạn nhân mãn, thiếu hụt lương thực, đói, khát, nóng, lạnh, thiên tai, chết chóc, chiến tranh ở nhiều cấp độ khác nhau. Đó là những tồn tại dễ thấy nhất của khổ.

Ở những nước đang phát triển, sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi sự thay đổi, phải nâng cao trình độ nhận thức và nghiệp vụ không ngừng gây lên căng thẳng, chán nản, bực bội, thất vọng, nghi ngờganh tỵ, thậm chí phẫn uất; chúng đều là những hình thức khác của khổ (dukka) mà người phải đối mặt hàng ngày. Ở những nước đã phát triển, điều kiện vật chất tương đối hoàn hảo, chiến tranh thiên tai cũng xảy ra đâu đó không gần họ, phải chăng khổ không còn? Lúc này con người phải đối mặt với những vấn đề khác, là vấn đề bên trong, ngay trên thân thể chúng ta hay trong tâm hồn mỗi người, trong các mối quan hệ giữa những cá nhân trong gia đình và ngoài xã hội.

Không ai chọn được cha mẹ, quê hương, đất nước mà mình đã sinh ra, đây là một sự thật. Không ai chọn được chiều cao, dáng vẻ, đường nét trên thân thể và gương mặt mình. Ai cũng muốn mình xinh đẹp hơn, khỏe mạnh hơn, thông minh hơn, đáng yêu hơn và khi đã có rồi, chúng ta muốn chúng tồn tại mãi mãi, nhưng có ai không phải trải qua già, bệnh và chết? Đây là một sự thật mà không ai tránh khỏi, cho dù người đó sống ở bất cứ đâu trên thế giới này.

Tình cảm của chúng ta luôn thay đổi, khiến ta phải phấp phỏm lo sợ không biết những gì mà chúng ta đang có sẽ đi về đâu. Khi mất đi những gì mà ta cho là “của ta”, chúng ta thất vọng, đau khổ, và thậm chí tuyệt vọng. Tình cảm còn thay đổi nhanh hơn cả thời tiết. Như vậy sự không thỏa mãn tồn tại ở khắp mọi nơi, dưới nhiều hình thức và cấp độ, tuy nhiên, nhận ra nó hay không, và khi nhận ra nó rồi, chúng ta chấp nhận nó như một sự thật trong đời sống hay tìm cách trốn tránh, che đậy cho nó bằng nhiều thứ khác để có được cảm giác an toàn giả tạo?

Để giải quyết những vấn đề trên, chúng ta cần phải biết nguyên nhân của chúng, điều giác ngộ cần thiết phải có để loại trừ nguyên nhân của khổ. Có những vấn đề chúng ta có thể thay đổi được, hay tác động khiến nó phải thay đổi. Nhưng cũng có những thứ chúng ta không thể thay đổi được, và điều tốt nhất là chính chúng ta phải thay đổi để phù hợp hơn với hoàn cảnh sống 1.300 năm trước, Santideva, một nhà sưẤn Độ đã thốt lên: “Làm sao ta có thể có đủ thảm da để che trọn mặt đất. Nhưng chỉ với đôi dép này ta có thể bảo vệ đôi chân mình khỏi trầy xước” (trên đường đời đầy chông gai). Đây chính là trí tuệ biết chấp nhận và hóa giải những khúc mắc trong cuộc sống.

Khác với những tôn giáo tin vào Thượng đế, Đức phật nói rằng không có một nguyên nhân đầu tiên và duy nhất cho mọi hiện tượng. Mỗi cái đều là nhân cho một cái khác, và chính nó cũng chỉ là quả của một chuỗi các tiến trình nhân - duyên khác nhau. Như vậy nhân cũng là quả và quả cũng là nhân. Sau đây là một đoạn trích dẫn trong Trường Bộ Kinh, câu hỏi của Thiên chủ Sakka liên quan đến vấn đềchúng ta đang thảo luận hôm nay. Cuộc đối thoại giữa Đức Phật và vị thiên chủ diễn ra như sau:

Sau khi được phép, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn câu hỏi đầu tiên:

- Bạch Thế Tôn, do trói buộc(vì nguyên nhân nào), các loài Thiên, Nhân, Asurà, NàGà, Càn Thát Bà. Đây là cách phân loại chúng sinh trong cõi dục giới: loài người và trời (chư thiên) thuộc vè cảnh vui; loài Asura (A Tu la) là một dạng chúng sinhthần lực hơn con người nhưng lại không tỏa sáng như chư thiên vì tâm họ thường bị sân hận chi phối; loài Nâga thuộc về súc sinh dạng lớn (như rồng, rắn, thần, voi…) và có chút ít thần lực; loài Ganthabba (Càn thát bà) cũng thuộc về dạng quỷ thần (như Asura và Nâga) biết bay và hưởng thụ mùi hương như thức ăn. Và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước: “Không thù hận, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không hận thù”. Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch và với ác ý, họ lại sống với nhau trong hận thù?

Thế Tôn trả lời câu hỏi ấy như sau:

- Do đố (ganh tỵ) và tham (keo bẩn), các loài Thiên, Nhân, Asurà, Nàgà, Càn Thát Bà và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước: “Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không thù hận”. Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù.

Đó là hình thức Thế Tôn trả lời cho câu hỏi Thiên chủ Sakka. Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:

- Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiên Thệ! Khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con diệt tận, do dự của con tiêu tan.

Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ câu trả lời Thế Tôn, liền hỏi câu hỏi tiếp:

- Bạch Thế Tôn, đố kỵ, tham lam, do nhân duyên gì, do tập khởi gì, cái gì khiến chúng sinh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có thì đố kỵ, tham lam có? Cái gì không có, thì tật đố kỵ, tham lam không có?

- Này Thiên chủ, đố kỵtham lam do ưa ghét làm nhân duyên, do ưa ghét làm tập khởi, ưa ghét làm chúng sinh khởi, ưa ghét khiến chúng hiện hữu, ưa ghét có thì đố kị, tham lam có; ưa ghét không có thì đố kị, tham lam không có.

- Bạch Thế Tôn, ưa ghét do nhân duyên gì, do tập khởi gì? Cái gì khiến chúng sinh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có thì ưa ghét có? Cái gì không có thì ưa ghét không có?

- Này Thiên chủ, ưa ghét do tham cầu làm nhân duyên, do tham cầu làm tập khởi, tham cầu khiến chúng sinh khởi, tham cầu khiến chúng hiện hữu. Tham cầu có thì ưa ghét có; tham cầu không có thì ưa ghét không có.

- Bạch Thế Tôn, nhưng tham cầu do nhân duyên gì, do tập khởi gì? Cái gì khiến tham cầu sinh khởi, cái gì khiến tham cầu hiện hữu? Cái gì có thì tham cầu có? Cái gì không có thì tham cầu không có?

- Này Thiên chủ, tham cầu do suy nghĩ làm nhân duyên, do suy nghĩ làm tập khởi; suy nghĩ khiến tham cầu hiện hữu. Suy nghĩ có thì tham cầu có; suy nghĩ không có thì tham cầu không có.

- Bạch thế Tôn, suy nghĩ lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi? Cái gì khiến suy nghĩ sinh khởi, cái gì khiến suy nghĩ hiện hữu? Cái gì có thì suy nghĩ có? Cái gì không có thì suy nghĩ không có?

- Này Thiên chủ, suy nghĩ lấy các loại vọng tưởng hý luận làm nhân duyên, lấy các loại vọng tưởng hý luận làm tập khởi. Các loại vọng tưởng hý luận khiến suy nghĩ sinh khởi, các loại vọng tưởng hý luận khiến suy nghĩ hiện hữu. Do các loại vọng tưởng hý luận có thì suy nghĩ có. Do các loại vọng tưởng hý luận không có thì suy nghĩ không có”. (DN.21)

Cuộc đối thoại này cho thấy Thiên chủ là một vị trời rất có trí tuệ, luôn muốn tìm hiểu vấn đề một cách rốt ráo. Vì như một vị lãnh đạo các chư thiên (năng lực thiện chủ đạo trong mỗi người hay trong vũ trụ), vị thiên chủ này muốn giải quyết vấn đề một cách có ý thức và có hệ thống, đúng phương pháp dựa trên sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của vấn đề và các mối quan liên hệ tương quan tương tức. Đây là phương pháp trực diện để giải quyết vấn đề rất Phật giáo: quan tâm một cách sáng suốt và khách quan nhìn nhận để giải quyết sự việc. Tuy nhiên, sự quan tâm đúng đắn này phải có nền tảng từ tình yêu thương không phân biệt và không thiên vị. Điều này là điểm khác biệt giữa sự tìm tòi, nghiên cứu và thử nghiệm thuộc về tâm linhtôn giáo với khoa học và kỹ thuật. Đoạn kinh trên cũng cho thấy khái niệm về thiên thầnThiên chủ (không phải Thượng Đế như quan niệm của người Thiên chúa hay người Hồi giáo, Hindu giáo) trong đạo phật nhưng rất khác với tôn giáo khác.

Câu hỏi của Thiên chủ Sakka phản ánh một vấn đề rất thực tế trong thế giới này: tại sao mọi người muốn hòa bình, yên ổn, hạnh phúc nhưng họ lại tự làm khổ mình và làm khổ người bằng cách gây bất đồng, bất ổn và chiến tranh? Câu trả lời của Đức Phật chỉ ra nguyên nhân là các phiền não nghiệp chướng của chúng sinh bắt đầu từ sự ích kỷ và thủ chấp. Chúng ta hãy trở lại với chuỗi nhân duyên tạo ra cái thế giới bất ổn này, nó như sau: ganh tỵ- ích kỷnguyên nhân trong ưa-ghét, cái này lại bắt nguồn từ tham cầu, và tham cầu lại đến từ suy nghĩ có nền tảng là vọng tưởng hý luận. Vọng tưởng hý luận chính là nhận thức sai lầm; khi các dữ liệu là không chính xác, suy nghĩ dựa trên những dữ liệu đó là tà tư duy (micchâ sakappa = vitakka) và các tà tư duy đó dẫn đến ưa-ghét dựa trên sự suy xét cảm tính chủ quan của cá nhân, và nó tạo ra đố kỵích kỷ điều dẫn đến hiềm thù, xung đột và chiến tranh. Khi tham cầu được thỏa mãn, con người sinh tham (ưa thích), và từ tham này khiến họ ích kỷ muốn những gì vừa đạt được chỉ thuộc về mình, không muốn chia sẻ; khi tham cầu bị từ chối, người ta nổi sân hận (ghét) và ganh tỵ đối với những ai đang có cái mà mình mong muốn. Và như vậy, trong vô minh, chúng sinh mong cầu hạnh phúcan ổn nhưng lại tự tạo ra đau khổ và bất ổn trong xã hội do chúng thiếu hiểu biết về chính mình và không biết rằng những gì đang diễn ra là mang tính nhân quả, không có một Thượng đế hay Sa tăng nào sau đó. Câu trả lời của Đức Phật đưa chúng ta về với sự thực đang diễn ra xung quanh chúng ta, về bản chất của con người nói riêng và về các hiện tượng của đời sống nói chung trong mối tương quan nhân quả.

Trong đời sống hàng ngày cũng vậy, mọi sự việc xảy ra đều có nguyên nhân và tạo duyên cho một hay nhiều sự việc khác. Sinh ra ở đâu và như thế nào cũng có nguyên nhânduyên nghiệp của nó. Xinh đẹp hay xấu xí, khỏe mạnh hay yếu đuối, thông minh hay tầm thường, thành đạt hay không thành đạt… tất cả đều có những nguyên nhân sâu xaPhật giáo gọi là Nghiệp (kamma) và quả của nghiệp (kamma-vipâka).

Vậy, nghiệp là gì? Theo nghĩa đen, nghiệp chính là hành động. Hành động hay biểu hiện qua 3 cửa là: thân, khẩu và ý. Về phương diện đạo đức, nghiệp lại được chia ra 3 loại: thiện, bất thiệntrung tính, nghĩa là không thiện cũng không ác. Về phương diện triết học, nghiệp chính là ý chí (cetanâ) hay động lực (sa#cetanâ) sau mỗi hành động. Trong mối quan hệ tương tác nhân quả trong thời gian, nghiệp lại được đề cập đến như hiện nghiệp, quá khứquả báo trong tương lai. Nghiệp cũng được nói đến dưới một số thuật ngữ khác như cận tử nghiệp, thường nghiệp, đoạn nghiệp, chướng nghiệp…Đây là một vấn đề khá rộng lớn, mà bài viết này không đi sâu vào giải thích tất cả các khía cạnh mang tính triết lý của chữ nghiệp. Tuy nhiên, theo sự phân tích tâm lý ở đoạn kinh trên, chúng ta cũng đã có được một cái nhìn khá thực tế về vấn đề nghiệp quả.

Hành động như thế nào thì gọi là thiện, và hành động như thế nào thì gọi là ác, điều này liên quan đến quan niệm thiện - ác vốn được hình thành và tồn tại cùng với sự hình thành và tồn tại của xã hội loài người. Quan niệm thiện - ác vốn thay đổi theo thời gian cũng có những điểm dị biệt tùy theo xã hội, cộng đồng hay tôn giáo. Trong đạo Phật, thực hành 5 giới cấm là tránh làm ác, tu Thập thiện làm lành, vun bồi phước đức, như bố thí, giữ giới, tu thiền…

Đoạn đối thoại sau đây giữa Đức Phật và một nhóm Bà la mônẤn Độ vào hơn 2.500 năm trước được ghi lại trong Trung Bộ Kinh nói về nghiệp trong ý nghĩa phổ biến nhất của nghiệp. Câu hỏi liên quan đến một vấn đề mà các Bà la môn trưởng giả đang quan tâm về sự sai biệt của các chúng sinh trong thế giới. Và câu trả lời của Đức Phật là những lời giải thích dùng khái niệm nghiệp - quả, vốn là một niềm tin rất thịnh hànhẤn Độ, nhưng cách phân tích của Đức Phật cho thấy một sự lý giải mới, khác với niềm tin thông thường của đại chúng.

- Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, phải sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục? Này tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, ở đây, một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sinh vào nơi tốt đẹp, Thiên giới, đời này?

- Này các Gia chủ, do nhân hành phi pháp, hành phi pháp chính đạo, này các Gia chủ, mà như vậy, có một số loại hữu tình, sau khi thân mạng chung phải sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do nhân hành đúng pháp, hành đúng chính đạo, này các Gia chủ, mà như vậy, có một số loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sinh vào thiện thú, thiên giới, đời này.

- Chúng con không thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết một cách vắn tắt nếu không được giải thích rộng rãi. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho chúng con để chúng con có thể hiểu đầy đủ những gì Tôn giả Gotama thuyết một cách vắn tắt!

- Như vậy các Gia chủ, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

- Thưa vâng, Tôn giả.

Thế Tôn nói như sau:

- Này các Gia chủ, có ba loại thân hành phi pháp, phi chính đạo, có bốn loại khẩu hành phi pháp, phi chính đạo, có ba loại ý hành phi pháp, phi chính đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người sát sinh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu tình. Người này lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác hoặc tại thôn làng hoặc tại rừng núi không cho người ấy, người ấy lấy trộm tài vật ấy. Người ấy sống tà hạnh đối với các dục lạc, giao cấu với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa. Như vậy, này các Gia chủ, là ba loại thân hành phi pháp, phi chính đạo (10 ác nghiệp qua 3 thân, 4 qua khẩu và 3 qua ý hành)

Này các Gia chủ, có ba loại thân hành đúng pháp, đúng chính đạo, có bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chính đạo? Này các Gia chủ, thế nào là ba loại thân hành đúng pháp, đúng thánh đạo? Ở đây, này các Gia chủ có người từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sinh và loài hữu tình; từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng núi không cho người ấy, người ấy không lấy trộm; từ bỏ sống theo tà hạnh đối với các dục, không giao cấu với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở… Như vậy, này các Gia chủ, là ba loại thân hành đúng pháp, đúng chính đạo.

Và này các Gia chủ, thế nào là bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chính đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người từ bỏ vọng ngữ, tránh xa vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: “Này người kia, hãy nói những gì Ông biết”, nếu biết, người ấy nói: “Tôi biết”; nếu không biết người ấy nói: “Tôi không biết”; hay nếu không thấy, người ấy nói: “Tôi không thấy”; nếu thấy người ấy nói: “Tôi thấy”. Như vậy, lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân vị kỷ, hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì. Từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những người này để sinh chia rẽ ở những người kia; như vậy, người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp, ưa thích hòa hợp, vui thích hòa hợp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, những lời nói nhu hòa, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, người ấy nói những lời như vậy. Từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, người ấy nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chính pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi. Như vậy, này các Gia chủ, có bốn loại khẩu hành đúng pháp, đúng chính đạo.

Và này các Gia chủ, thế nào là ba loại ý hành đúng pháp, đúng chính đạo? Ở đây, này các Gia chủ, có người không có tham ái, không tham lam tài vật của kẻ khác, không nghĩ rằng: “Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình!” Lại có người không có tâm sân, không có khởi lên hại ý, hại niệm, nhưng nghĩ rằng: “Mong rằng những loài hữu tình này sống không thù hận, không bị oán thù, không nhiễu loạn, được an lạc, lo nghĩ tự thân!” Người ấy có chính kiến, không có tưởng điên đảo, nghĩ rằng: “Có bố thí, có kết quả của bố thí, có tế lễ, có cúng dường, các hành vi thiện ác có kết quả dị thục, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sinh, trong đời, có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chính hành trì, chân chính thành tựu, sau khi tự tri, tự chứng lại tuyên bố cho đời này và cho đời sau”. Như vậy, này các Gia chủ, có ba loại ý hành đúng pháp, đúng chính đạo. Như vậy, do nhân hành đúng pháp, hành đúng chính đạo, này các Gia chủ, ở đây, một sồ loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sinh vào nơi tốt đẹp, nhân gian hay thiên giới.

Này các Gia chủ, nếu một vi hành đúng pháp, đúng chính đạo, mong ước: “Ôi, mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sinh vào đại phú gia Bà-la-môn… đại phú gia, vương tộc Sát - đế - lị” Sự kiện nảy xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sinh vào đại phú gia, vương tộc Sát – đế –lị. Vì sao vậy? Vì vị ấy, là vị hành đúng pháp, đúng chính đạo.

Này các Gia chủ, nếu một vi hành đúng pháp, đúng chính đạo, mong ước: “Ôi, mong rằng sau khi than hoại mạng chung, tôi được sinh vào đại phú gia Bà-la-môn…đại phú gia gia chủ!” Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sinh vào đại phú gia gia chủ. Vì sao vậy? Vì vi ấy là vị hành đúng pháp, đúng chính đạo. Này các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chính đạo, mong ước: “Ôi mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, tôi được sinh thân hữu với chư thiên Tứ thiên vương, với chư thiên cõi trời Ba mươi ba, với chư thiên Dạ ma, với chư thiên Đâu-suất-đà, với chư thiên Hóa lạc, với chư thiên Tha hóa tự tại, với chư thiên Phạm chúng, với chư thiên Quang thiên, với chư thiên Thiểu Quang thiên, với chư thiên Vô lượng quang thiên, với chư thiên Quang âm thiên, với chư thiên Tịnh thiên, với chư thiên Thiểu tịnh thinh, với chư thiên Vô lượng tịnh thiên, với chư thiên Biến tịnh thiên, với chư thiên Quảng quả thiên, với chư thiên Vô phiền thiên, với chư thiên Vô nhiệt thiên, với chư thiên Thiện hiện thiên, vớ chư thiện Thiện kiến thiên, với chư thiên Sắc cứu kính thiên, với chư thiên Hư không vô biên xứ thiên với chư thiên Thức vô biên xứ thiên, với chư thiên Vô sở hữu xứ thiên, với chư thiên Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thiên!” Sự kiện này xảy ra, vị ấy sau khi thân hoại mạng chung được sinh thân hữu với chư thiên phi thưởng Phi phi tưởng xứ thiên. Vì sao vậy? Vì vị ấy là vị hành đúng pháp, đúng chính đạo.

Này các Gia chủ, nếu một vị hành đúng pháp, đúng chính đạo, mong ước: “Ôi, mong rằng, với sự đoạn từ các lậu hoặc, với thắng trí, ta chứng ngộ, chứng đạt và an tú ngay trong hiện taị tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu!” Sự kiện này xảy ra, vị ấy với sự đoạn trừ các lậu hoặc, với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại tâm giải thoát, tuệ giải thoát vô lậu. Vì sao vậy? Vì vị ấy hành đúng pháp, đúng chính đạo.

Khi nhe nói vậy, các gia chủ ở Bà-la-môn ở Sa-la bạch Thế Tôn:

“Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chính pháp đã được Thế tôn dùng nhiều phương tiện để trình bày. Và nay chúng con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ- kheo Tăng, mogn Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng!” (Saleyyasutta M41)

Như vậy, tu là chuyển nghiệp hay sửa đổi thái độ và cách hành xử trong cuộc sống.

Sự sửa đổi này bắt đầu từ chính tín (niềm tin đúng đắn) và chính kiến (hiểu biết về nhân - quả thiện ác để rồi bỏ ác làm lành, tu tâm sửa tánh). Như vậy ai cũng phải tu thì mới có hạnh phúc a lạc ngay tỏng đời này, và cũng tạo duyên cho một sự tái sinh tốt đẹp cho đời sau.

Việc tu thường bắt đắu từ một sự nhận thức hay kinh nghiệm nào đó khiến người ta phải thay đổi cách sống và cách nhìn nhận về con nguời và cuộc đời. Sự kiện nàycó thể đến từ một cú sốc nào đó trong các mối quan hệ, cũng có thể nó đến từ một sự mất mát lớn lao khiến người ta cảm thấy hụt hững trong cuộc sống khiến họ thấy khổ, nó cũng có thể là một người suy nghĩ về tính chất vô thường giả tạm của đời sống qua những gặp gỡ tiếp xúcchiêm nghiệm. Nhưng thấy khổ và thấy vô thường giả tạm cũng chưa đủ để người ta vượt qua chúng, người ta cần phải hiểu chính mình qua các mối quan hệ và các sự kiện xẩy ra trong đời sống, và từ đó thấy ra tính vô ngã trong vạn pháp để thôi thủ chấp và tích lũy. Như vậy, đến giai đoạn cuối, tu là buông bỏ, bắt đầu từ buông bỏ tà kiến chấp thủ, buông bỏ các ác hạnh khiến mình và người đau khổ, buông bỏ các định kiến và các thói quen không lành mạnh đã được điều kiện hóa, cho đến buông bỏ cả pháp môn đã từng tu tập trong một giai đoạn nào đó trên đường giải thoát. Phải biết rằng Pháp Phật như những liều thuốc chữa bệnh cho chúng sinh, khi bệnh hết thì không cần phải uống thuốc đó nữa.

Diệu phápthần dược, Pháp (như dược liệu) được liệt kê là gồm 37 vị, chia ra thành 7 thang, nhưng tựu trung lại có 7 pháp gọi là bồ đề phần. Khi phật pháp được xem như một con đường sống để có hạnh phúc an lạc chân thật, thì nó lại được gọi là Bát Thánh Đạo. Và khi Pháp được miêu tả như những gì cần phải huấn luyện, học tập để có được an lạc giải thoát thì chúng ta lại phải thực hành “Giới-Định-Tuệ”. Người Phật tử tu chính là học và thực hành những pháp trên.

Nguồn: Tạp chí Phật học
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9318)
Tánh Không với hàm ý bản thể của thế giới, vạn vật đều là không, nghĩa là không có thật, không có thực thể, không có...
(Xem: 7961)
Có một thực tế hiển nhiên cần được ghi nhận rằng, không phải ai cũng hiểu đúng về lời dạy của Đức Phật, ngay cả khi Ngài còn tại thế.
(Xem: 8946)
Vị thế tối thượng ở đời được Thế Tôn xác lập dựa vào sự kết tinh của tu tập giới định tuệ và thành tựu giải thoát.
(Xem: 7561)
Một thời Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, tại thị trấn của người Kàlàmà, ở Kesaputta. Rồi các người Kàlàmà đi đến đảnh lễ...
(Xem: 8219)
Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và...
(Xem: 9213)
Hãy trân quý những gì đang có, giải thoáthạnh phúc ở trong lòng bàn tay của bạn! Xin hãy mỉm cười...
(Xem: 9314)
Trong Phật giáo các từ ngữ như “chánh ngữ” và “ái ngữ” luôn luôn được đề cập tới để khuyên dạy các Phật tử khi sử dụng tự do ngôn luận.
(Xem: 8999)
Theo Phật giáo Nam truyền, ngày Đản sanh, Thành đạo và nhập Niết-bàn của Đức Phật đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesākha
(Xem: 7732)
Trong cái thấy của kinh Pháp Hoa thì tất cả vũ trụ là một. “Tất cả các cõi nước thông làm một cõi nước Phật”
(Xem: 11316)
Trong những bộ Kinh chúng ta học thường thấy hai từ Giác NgộGiải Thoát. Tất cả người tu học đều lấy hai từ đó làm cứu cánh để đi tới.
(Xem: 8805)
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh đại thừa Phật giáo.
(Xem: 8245)
Thập hiệu Như Lai, là những danh hiệu cao quý để tôn xưng những bậc đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
(Xem: 8124)
Cầu nguyện là một phương pháp tâm linh giúp cho con người chúng ta có thể tháo gỡ một phần nào những nỗi khổ niềm đau,
(Xem: 8110)
Tam Bảo như lãnh vực hoạt động của mặt trời. Lòng bi mẫn của các ngài thì vô tư và không bao giờ cạn kiệt.
(Xem: 6353)
Bốn Đại nguyện của giáo lý đại thừa được triển khai trên sự thực hành giáo lý Tứ Diệu Đế...
(Xem: 7741)
Một thời Đức Phật cư trú gần Bārānasī(Ba La Nại), ngài đã nói bài kệ nầy, về Vua Rồng Erakapatta.
(Xem: 7543)
Tất cả các tính đức là kết quả đến từ tinh tấn, nguyên nhân của hai tích tập phúc đứctrí tuệ. Trí địa thứ tư ngọn lửa trí huệ của...
(Xem: 7520)
Ngọn lửa trí tuệ phát ra ánh sáng khi đốt cháy các hiện tướng nhị nguyên đối đãi của các hiện tượng, do thế trí địa thứ ba được gọi là Phát quang địa.
(Xem: 8532)
Ngũ uẩn giai không 五蘊皆空 nghĩa là năm uẩn đều không có thật. Chữ uẩn 蘊 (skandha) còn gọi là ấm 陰 Uẩn là nhóm hay tập hợp hoặc tích hợp.
(Xem: 8045)
Như Lai thọ lượng là phẩm thứ 16 của kinh Pháp Hoa.
(Xem: 8433)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về chư tăng.
(Xem: 11264)
Đối với nhiều người, Phật Giáo vượt ra ngoài tôn giáo và là một triết lý hay "lối sống" hơn. Đó là một triết lý, vì triết lý “có nghĩa là tình yêu của trí tuệ”
(Xem: 8419)
Khi người ác xúc-phạm người hiền lành và vô tội, thì hậu-quả của hành-động ác nầy, đánh ngược lại người làm-ác, cũng giống như khi ném bụi bẩn ngược chiều gió, bụi bẩn bay ngược lại người ném.
(Xem: 7552)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Trúc Lâm (Veluvana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về một nữ cư sĩ, tên là Uttarā.
(Xem: 7147)
Món quà tặng về Phật Pháp, cao quý hơn tất cả những món quà tặng khác, Hương vị Phật Pháp, thơm ngọt hơn tất cả những hương vị khác
(Xem: 8425)
Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về Tôn Giả A-Nan.
(Xem: 6292)
Trích dịch Chương Thứ Nhất của Tác Phẩm “Buddhism - One Teacher, Many Traditions [Phật Giáo - Một Vị Thầy, Nhiều Truyền Thống]
(Xem: 8368)
Hồi đầu là quay đầu trở lại hay xoay đầu trở lại. Thị ngạn: chính ngay đó là bờ mé. Đây là một câu người học Phật thường nghe nói.
(Xem: 9399)
Đức Phật dạy giáo lý Nghiệp với mục đích khuyến khích con người thực hành các Nghiệp lành để trang nghiêm cho kiếp sống hiện tại và...
(Xem: 8363)
Bước ngoặt quan trọng nhất trong tiến trình nhận thức của con người có lẽ là khi chúng ta bắt đầu nhận thức về chính bản thân mình.
(Xem: 9341)
Cái Thấy là một biểu hiện của sức sống bản nhiên, là sinh lực thường hằng vượt lên trên mọi giới hạn về thời gian (lúc thức, lúc ngủ, khi sống và cả khi chết…)
(Xem: 7965)
Giáo pháp của Vimalakirti trình bày các giáo pháp tinh yếu của Phật giáo Đại thừa trong 14 chương tương đối ngắn.
(Xem: 7161)
Trung luận, do Bồ-tát Long Thọ làm ra. Được viết dưới dạng kệ tụng. Có khoảng 500 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu
(Xem: 9901)
Nói chung, không dễ gì lưu lại ngọc xá lợi, không dễ gì thành tựu đạo quả qua quá trình tu chứng với những kiếp tái sinh nối tiếp trong thiện đạo.
(Xem: 15036)
Này các Tỷ kheo, trong toàn thế giới, Thiên giới, Ma giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiênloài người, Như Lai là bậc chiến thắng, không bị ai chiến bại, toàn trí, toàn kiến, đại tự tại.
(Xem: 9410)
Khi thảo-luận về một ngón-tay, thì ngón-tay có phải là sự-thật không? Có phải chỉ có một ngón-tay duy-nhất, là có thể chỉ đúng vị-trí mặt trăng không?
(Xem: 7926)
Kim Cang dạy rất kỹ. Thấy “thường” đã sai mà thấy “đoạn” càng sai. Thấy có đã sai mà thấy không càng sai. Bồ tát thì “bất tận hữu vi bất trụ vô vi”.
(Xem: 7920)
Phu nhân Thắng Man sau khi phát mười hoằng thệ xong, trên hư không hoa trời liền rơi, nhạc trời liền trổi, chúng thấy điềm lành đó cũng đồng phát nguyện:
(Xem: 7972)
Ở trí địa Li cấu, bởi vì các bồ tátgiới hạnh toàn hảo, nên tự nhiên buông bỏ các hành vi sai lạc dù trong chiêm bao.
(Xem: 7909)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (chư Phật); chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử
(Xem: 7963)
Ngoại trừ các bậc tự chủ lẽ sống chết thì hầu hết chúng sanh đều không biết được thời điểm lâm chung của mình, nên khó có thể tự chủ tâm tư khi hấp hối.
(Xem: 7689)
Hakuin Ekaku (Bạch Ẩn Huệ Hạc, 白隠 慧鶴?, January 19, 1686 - January 18, 1768) là một thiền sư Nhật nổi tiếng đã có công gây dựng lại dòng thiền Lâm Tế ở Nhật Bản
(Xem: 8696)
Vua A Xà Thế vốn là vị vua có tài, nhờ Phật chuyển hóanhận ra sai lầm, biết sám hối, ăn năn, làm mới lại chính mình, làm lại cuộc đời.
(Xem: 7927)
Muốn thấy được Phật tánh thì phải dừng nghiệp thức. Nghiệp thức không dừng không bao giờ chúng ta thấy được tánh Phật.
(Xem: 8439)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 10442)
Trong nền văn hóa 5000 năm của con người, mỗi con số không đơn thuần chỉ là con số khô khan mà tất cả con số đều có một ý nghĩa đặc biệt của vũ trụ huyền bí.
(Xem: 7997)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn? Các Chân lý cao quý về khổ, về nguồn gốc của khổ, về sự chấm dứt của khổ, và Chân lý cao quý về phương pháp dẫn đến sự chấm dứt của khổ.
(Xem: 10966)
Trong kinh có ghi lý do Đức Phật xuất hiện nơi đời chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn đó là Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến...
(Xem: 8688)
Cùng một việc dứt thở, bỏ xác, tại sao ở người thế-gian, gọi là chết, còn ở Phật lại gọi là “nhập Niết-bàn”?
(Xem: 7825)
Sống, theo tính chất duyên sinh, là sống với, liên hệ với; không ai sống mà không có mối tương quan với người khác.
(Xem: 7498)
Vào đầu thế kỷ 12, quân Hồi giáo đã xâm chiếm Ấn-độ, với bản chất tàn bạo họ đã tàn sát các Tăng Ni, Phật tử, đốt sạch các Kinh điển Phật giáo...
(Xem: 8419)
Như Lai là một trong mười danh hiệu của Thế Tôn. Vậy thế nào là “Pháp” và tu học như thế nào để “thấy Pháp”.
(Xem: 7980)
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của vũ trụ. Nó cao cả hơn một thượng đế nhân tạoloại bỏ những giáo điềuthần học.
(Xem: 8488)
Nhập Trung đạoCon đường Bồ tát tích hợp đại bitrí tuệ, khởi hành từ đại bi và tích hợp với tính bất nhị và tâm bồ đề.
(Xem: 7930)
Thanh VănĐộc giác sinh từ chư Tối Thắng (Chư Phật) Chư Phật sinh từ chư Bồ tát. Đại bi, tính bất nhị, và tâm Bồ đề là những nguyên nhân của chư Tối Thắng Tử (Chư Bồ tát)
(Xem: 7918)
Bộ luận này, giải thích một cách không sai lạc tri kiến của ngài Long Thọ, được tích hợp từ Trung Lu
(Xem: 7110)
Theo kinh điển Nguyên thủy của Phật giáo Nam tông, Bồ tát Đản sanh, Bồ tát thành Đạo và Phật nhập Niết-bàn đều diễn ra vào ngày trăng tròn tháng tư âm lịch.
(Xem: 8326)
Tập tục dâng hương là một đạo lý truyền thống của dân tộc có từ ngàn xưa, đây là những gia bảo tinh thần đáng quý của tổ tiên để lại cho con cháu kế thừa.
(Xem: 8120)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8218)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant